I. Một số vấn đề về hoạt động trợ giúp pháp lý
1. Một số quy định về trợ giúp pháp lý
1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã nêu về khái niệm trợ giúp pháp lý như sau: “trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”. Hoạt động trợ giúp pháp lý góp vai trò quan trọng trong cải cách tư pháp. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, thành phố là đơn vị sự nghiệp duy nhất của Ngành Tư pháp, của Nhà nước tham gia vào hoạt động xét xử. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên của quá trình tranh tụng, có quan hệ mật thiết và trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án. Với khái niệm này, TGPL được nêu lên với bản chất và đặc điểm của hoạt động này như sau: (1) TGPL là hoạt động cung cấp vụ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, (2) hoàn toàn miễn phí cho người được TGPL; (3) có ý nghĩa trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.2. Người được trợ giúp pháp lý
Điều 7 Luật TGPL quy định về 14 diện người được TGPL cụ thể: Người có công với cách mạng; Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (gồm 08 nhóm: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao tuổi; Người khuyết tật; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; Người nhiễm HIV).
Với các quy định này, theo ước tính thống kê số lượng người thuộc diện được TGPL trên cả nước hiện nay chiếm khoảng 45% dân số.
1.3. Các lĩnh vực, hình thức trợ giúp pháp lý
Điều 27 Luật quy định TGPL được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Các hình thức TGPL bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng.
1.4. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý
- Điều 10 và Điều 11 Luật TGPL quy định tổ chức thực hiện TGPL bao gồm: Trung tâm TGPL nhà nước. Đây là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, do UBND cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Tổ chức tham gia TGPL gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức đăng ký tham gia TGPL.
- Điều 17 Luật quy định người thực hiện TGPL bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước; luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL; Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia TGPL; Cộng tác viên TGPL.
1.5. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
Điều 40 Luật TGPL quy định Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý với các nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý; xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch phát triển trợ giúp pháp lý và tổ chức triển khai thực hiện; ban hành các quy định hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, mẫu giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tiêu chí xác định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, tổ chức và theo dõi việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho người thực hiện trợ giúp pháp lý; tổ chức công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý và việc thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý; khen thưởng, kỷ luật và xử lý vi phạm trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tiếp nhận hỗ trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân cho công tác trợ giúp pháp lý; thực hiện hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý.
2. Vị trí, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
2.1. Hoạt động trợ giúp pháp lý góp phần bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận công lý, tiếp cận pháp luật tại Việt Nam. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước chịu trách nhiệm trong bảo đảm cho người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội được thụ hưởng chính sách pháp luật công bằng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ, giúp đỡ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, trợ giúp pháp lý có vai trò giúp người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng với các nhóm người khác trong xã hội.
2.2. Hoạt động trợ giúp pháp lý góp vai trò quan trọng trong cải cách tư pháp. Công cuộc cải cách tư pháp được Đảng ta đặt ra với những định hướng cơ bản mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao để bảo vệ tốt nhất quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. Đặc biệt là đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Trung tâm TGPL Nhà nước là đơn vị sự nghiệp duy nhất của Ngành Tư pháp, của Nhà nước tham gia vào hoạt động xét xử. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên của quá trình tranh tụng, có quan hệ mật thiết và trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án. Qua hoạt động nghiệp vụ, hoạt động TGPL cũng sẽ góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Có thể nói, TGPL là một trong những khâu làm hoàn chỉnh vai trò của Nhà nước từ việc xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật để đưa pháp luật vào đời sống xã hội có hiệu quả.
2.3 Trợ giúp pháp lý là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người tại Việt Nam. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của mình, trợ giúp pháp lý đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, nhất là khi họ rơi vào tình trạng bị buộc tội, nguy cơ bị tước quyền tự do, chính là lúc Nhà nước cần có sự trợ giúp, hỗ trợ để họ được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
3. Quan điểm của Đảng và nhà nước về hoạt động trợ giúp pháp lý trong bối cảnh hiện nay
- Xuất phát từ yêu cầu khách quan của vị trí, vai trò của trợ giúp pháp lý trong việc đóng góp cho công cuộc cải cách tư pháp: Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005) đã nêu: “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”, “hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Trong khi đó TGPL tham gia, là một bên của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, do đó để đóng góp vào công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi cần sự nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL. Sau 08 năm triển khai Chiến lược cải cách tư pháp này vẫn khẳng định nhiệm vụ cải cách tư pháp trong thời gian tới là: “... từng bước đảm bảo cho mọi công dân có nhu cầu đều được trợ giúp pháp lý và được bào chữa khi bị xét xử về hình sự”; “đổi mới cơ chế, chính sách nhằm mở rộng đối tượng, nâng cao chất lượng TGPL cho người dân, hỗ trợ các đối tượng cần được trợ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bảo đảm công lý, công bằng xã hội”[1].
- Tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, một trong những quan điểm chỉ đạo đó là: “Nhà nước chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu, nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập”, (trong đó, trợ giúp pháp lý được xác định là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu).
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tại Phần XIII Báo cáo chính trị và Mục 10 Phần IV Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 đã nêu nhiệm vụ “đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng” (trong đó có Trung tâm TGPL nhà nước với vị trí là tổ chức sự nghiệp công lập của Nhà nước tham gia vào quá trình tố tụng) và phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu “Nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý...”.
- Luật TGPL năm 2017 ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước đối với hoạt động TGPL[2]. Quy định này thể hiện cam kết của Nhà nước đối với chính sách an sinh xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước trong xóa đói giảm nghèo về pháp luật cho những người không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý trên thị trường. Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình thông qua: (1) thành lập hệ thống các tổ chức TGPL của Nhà nước bảo đảm sự chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân; (2) bảo đảm kinh phí cho hoạt động TGPL. Các Bộ luật, luật về tố tụng cũng ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền được TGPL cho người được TGPL.
Tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ; Quyết định số 2069/QĐ-TTg và Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định trợ giúp pháp lý là dịch vụ sự nghiệp công lập thiết yếu do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên và trong quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp, từ nay đến năm 2030 mỗi tỉnh, thành phố đều có 01 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại các tỉnh, thành phố để cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý.
4. Kinh nghiệm nước ngoài về hoạt động trợ giúp pháp lý
Hiện nay, có một nhận thức mang tính quốc tế, đó là tiếp cận công lý là một quyền cơ bản của con người liên quan đến pháp luật hình sự. Con người không thể bị cản trở tiếp cận với công lý, đặc biệt khi quyền tự do hoặc cuộc sống của họ bị đe dọa do thiếu nguồn lực để thuê luật sư bảo vệ. Mặc dù trợ giúp pháp lý trên thế giới đã hình thành và có lịch sự phát triển hơn 500 năm, trải qua nhiều cuộc tranh luận và đã đi đến sự khẳng định rằng, TGPL là cần thiết, kể cả đối với các nước rất phát triển. Nó cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xét xử. Một số nước Hiến pháp quy định quyền được TGPL trong tư pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho những người không có khả năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình sự, ví dụ như Thái Lan, Bỉ, Nam Phi, Ấn Độ, Nga, Dominica, Tây Ban Nha...[3].
Đến nay, TGPL đã phát triển ở các quốc gia với các mức độ, phương thức khác nhau, đa dạng về cách thức vận hành tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố ở quốc gia đó như điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ chính trị, hệ thống pháp luật. Xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới đều mong muốn cung cấp cho người được TGPL dịch vụ có chất lượng một cách kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con người trong tiếp cận công lý.
Trên thế giới hiện nay phổ biến có ba mô hình tổ chức thực hiện TGPL (i) mô hình TGPL do Nhà nước thực hiện hoàn toàn; (ii) mô hình TGPL do luật sư tư và các tổ chức xã hội trực tiếp thực hiện; (iii) mô hình Nhà nước thành lập hệ thống TGPL của Nhà nước đồng thời huy động các lực lượng khác trong xã hội tham gia thực hiện TGPL và trả thù lao cho họ. Hiện nay, rất nhiều nước áp dụng mô hình hỗn hợp này như Nhật Bản, Ailen, bang Victoria, Queensland (Úc), Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, bang Ontario (Canada), Malaysia, Israel,…).
Về cách thức tổ chức hệ thống trợ giúp pháp lý: Đa số các nước có tổ chức TGPL nhà nước thì tổ chức TGPL được thiết kế theo ngành dọc, có cơ quan quản lý tại Trung ương/khu vực và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương (như Ailen, Hàn Quốc, Nhật Bản...).
Về người được TGPL: Do khác nhau về điều kiện kinh tế - xã hội nên Luật TGPL các nước sẽ quy định khác nhau về diện người, điều kiện, tiêu chuẩn để được thụ hưởng dịch vụ TGPL. Có thể khái quát các nhóm đối tượng cơ bản sau thuộc diện được TGPL theo pháp luật TGPL của các nước: i) là những người nghèo, không có hoặc không đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ pháp lý; ii) là những người yếu thế không có khả năng tự bảo vệ cần được sự trợ giúp về pháp luật như: người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người khuyết tật, người chưa thành niên.... Theo quy định của Luật TGPL của nhiều nước, để được TGPL thì người đó phải chứng minh mình thuộc diện được trợ giúp. Đa số các nước trên thế giới chỉ miễn phí cho một số đối tượng nhất định trong một số loại vụ việc nhất định, chủ yếu là đối với đối tượng bị buộc tội, trong vụ việc hình sự và sẽ thu phí, giảm phí đối với các nhóm người được TGPL còn lại (Hungary, Ailen, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan...)[4].
Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động TGPL: Luật TGPL một số nước quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan quản lý TGPL. Ví dụ, Luật TGPL Modova năm 2007 quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý hệ thống TGPL do Nhà nước bảo đảm và quy định chi tiết trách nhiệm của từng cơ quan (Bộ Tư pháp; Liên đoàn Luật sư); Điều 8 Luật TGPL Nhật Bản năm 2004 quy định Chính phủ có trách nhiệm thành lập hệ thống TGPL và bảo đảm hệ thống hoạt động có hiệu quả...
Về ứng dụng công nghệ thông tin trong trợ giúp pháp lý: Để nâng cao hiệu quả quản lý tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, nhiều nước đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý nhân sự, tiếp nhận, xử lý vụ việc, tư vấn trực tuyến, hỗ trợ người được trợ giúp pháp lý nộp đơn trực tiếp, tự giải quyết những vướng mắc đơn giản,... (như Ailen, Mỹ, Hà Lan,...).
II. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
1. Về ban hành chính sách, pháp luật hoạt động trợ giúp pháp lý
Trong công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật về lĩnh vực TGPL dần hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Ra đời từ những năm cuối của thế kỷ XX bằng Quyết định số 734/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (ngày 06/9/1997), đến nay đã trải qua hai lần xây dựng, sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 (được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI) và mới được thay thế bởi Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 (được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV). Đây là những dấu ấn quan trọng, tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới. Chế định TGPL cũng đã được đồng bộ hóa trong các Bộ luật, luật khác như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật... Bên cạnh đó, Luật TGPL và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã góp phần nội luật hóa ở mức độ cao các cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989[5]; Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966; Các Nguyên tắc và hướng dẫn của Liên hợp quốc về quyền về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự 2012...
Đến nay, có thể nói rằng khung pháp luật về TGPL đã tương đối hoàn chỉnh từ Luật, Nghị định, Thông tư liên tịch, Thông tư, tiếp tục khẳng định TGPL là một chế định pháp luật gắn liền với chế định tư pháp, xác lập trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho nhóm đối tượng yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách cần được quan tâm giúp đỡ thông qua các hoạt động TGPL liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong các vụ việc cụ thể.
2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
Hiện nay việc quản lý về TGPL được thực hiện theo hai cấp, trung ương và địa phương. Ở trung ương, có Cục TGPL là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về TGPL. Ở địa phương có Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về TGPL tại địa phương. Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Một số kết quả của công tác quản lý về trợ giúp pháp lý, cụ thể như sau:
- Hệ thống TGPL được củng cố, kiện toàn, tinh gọn, tăng cường năng lực. Hiện nay, hệ thống có 63 Trung tâm TGPL nhà nước với 1.237 người, trong đó 669 Trợ giúp viên pháp lý; 106 Chi nhánh TGPL cấp huyện, liên huyện[6]. Bên cạnh đó, chúng ta còn có 667 luật sư và 48 Cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL; 193 tổ chức đăng ký tham gia TGPL và 40 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp. Hiện nay, trợ giúp viên pháp lý là đội ngũ nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL cho người dân. Trong khi tổng số người làm việc tại Trung tâm TGPL không tăng, tỷ lệ số lượng trợ giúp viên pháp lý trên tổng số người làm việc tại Trung tâm TGPL từng bước được nâng lên, từ chiếm 45%[7] tăng lên chiếm 54%[8], điều đó thể hiện chất lượng nguồn nhân lực ngày càng tăng lên. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao, tất cả các Trợ giúp viên pháp lý đều đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề, hạng chức danh, ngày càng thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, tiêu chuẩn, điều kiện của Trợ giúp viên pháp lý và luật sư là tương đồng.
- Số lượng, chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng ngày càng tăng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Nếu như trước đây, hoạt động trợ giúp pháp lý vẫn còn dàn trải, chưa phản ảnh rõ nét bản chất của công tác này là giúp đỡ người được trợ giúp pháp lý khi họ có vướng mắc, tranh chấp pháp luật cụ thể thì đến nay, đặc biệt là từ sau khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, hoạt động trợ giúp pháp lý đã có sự chuyển hướng rõ rệt, các Trung tâm trợ giúp pháp lý đã tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng. Hoạt động phối hợp trợ giúp pháp lý trong tố tụng đã có nhiều chuyển biến, qua đó nguồn vụ việc tham gia tố tụng được tăng lên rõ rệt. Từ khi thành lập đến tháng 12/2021, các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc đã thực hiện được 2.304.834 vụ việc TGPL miễn phí, trong đó có 204.411 vụ việc tham gia tố tụng. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng đã hoàn thành, kết thúc tăng hằng năm, cụ thể: năm 2018 là 11.860 vụ, năm 2019 là 13.428 vụ, năm 2020 là 16.168 vụ. Năm 2021: 16.976 vụ.
Nhiều vụ việc tham gia tố tụng có quan điểm bào chữa, bảo vệ của Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện TGPL được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận, được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh, thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị của Viện Kiểm sát, thậm chí được vô tội đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, củng cố niềm tin vào công lý. Hầu hết các vụ việc TGPL được thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng trở lên. Trong đó nhiều vụ việc có kết quả thành công, hiệu quả rõ rệt. Chỉ tính từ ngày 01/01/2018[9] đến ngày 30/06/2021, toàn quốc đã có 13.103 vụ việc thành công, hiệu quả, trong đó số vụ việc tham gia tố tụng thành công, hiệu quả do Trợ giúp viên pháp lý thực hiện là 10.929 vụ việc (chiếm 83,4%).
Từ những kết quả từ thực tiễn trong thời gian qua đã củng cố thêm định hướng tập trung vào vụ việc TGPL, nhất là trong vụ việc tham gia tố tụng là hoàn toàn đúng đắn. Từ đó đội ngũ người thực hiện TGPL nói chung, Trợ giúp viên pháp lý nói riêng đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình, được người dân và các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận và đánh giá cao.
- Về công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập sự, kiểm tra kết quả tập sự trợ giúp pháp lý: Từ năm 2018 đến nay, Bộ Tư pháp tổ chức 04 lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý hạng II và tổ chức 01 đợt thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý hạng II, tổ chức 02 đợt kiểm tra hết tập sự trợ giúp pháp lý. Hằng năm, ở Trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, trong đó nhiều lớp tập huấn kỹ năng trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính, nạn nhân bạo lực phụ nữ, trẻ em gái..., qua đó trang bị cho người thực hiện trợ giúp pháp lý kiến thức, kỹ năng nhằm nâng cao năng lực thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Về công tác kiểm tra về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý: Hằng năm, Bộ Tư pháp tổ chức và liên ngành với các bộ, ngành khác (như Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) tổ chức các đoàn kiểm tra về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý; phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý tại một số địa phương. Qua hoạt động kiểm tra, Bộ Tư pháp đã kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị về hoạt động trợ giúp pháp lý; tình hình thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý của các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và có hướng dẫn nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trợ giúp pháp lý.
- Về hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý: Trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác, đặc biệt là các tổ chức của Liên hợp quốc như UNDP, UNODC, UNICEF, UNAIDS, UNWOMEN..., các đại sứ quán (Đại sứ quán Ai-len, Đại sứ quán Israel...), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), cộng đồng châu Âu (EU) trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý nhằm huy động hơn nữa các nguồn lực hỗ trợ cho công tác trợ giúp pháp lý.
- Một số kết quả khác như truyền thông về TGPL không ngừng được đổi mới theo các phương thức khác nhau, gồm truyền thông truyền thống (trực tiếp về cơ sở, báo đài, tờ gấp…), truyền thông hiện đại (internet, điện thoại hotline,…) và hình thức đặc thù (hộp, bảng tin, tờ tin TGPL tại cơ quan tố tụng, chính quyền cơ sở…); ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện TGPL thông qua hệ thống quản lý TGPL; thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là người được TGPL về cơ bản đã đáp ứng mục đích, yêu cầu Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 04/7/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp...
Đánh giá chung
Trải qua gần 25 năm hình thành và phát triển, có thể nói hoạt động trợ giúp pháp lý đã thực sự đi vào đời sống pháp luật, mang lại hiệu quả thiết thực giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo và các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa của Đảng và Nhà nước, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận công lý, đóng góp vào cải cách tư pháp, góp phần đáng kể vào sự phát triển của Ngành Tư pháp. Có được những kết quả nêu trên là do sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện thể chế và tổ chức triển khai thi hành pháp luật TGPL; sự đồng thuận, tích cực, chủ động của các tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL trong việc triển khai thi hành pháp luật TGPL, nhất là các tư tưởng đổi mới hoạt động TGPL trong thời gian qua; sự quan tâm, phối hợp với một số cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về TGPL,.... Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TGPL vẫn còn có những hạn chế, bất cập như sau:
- Số lượng vụ việc TGPL, trong đó có số lượng vụ việc tham gia tố tụng hàng năm vẫn còn thấp so với số người thuộc diện TGPL[10] và số lượng vụ án được xét xử trên trên toàn quốc. Chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL còn chưa đồng đều.
- Chức danh trợ giúp viên pháp lý mặc dù ra đời từ năm 2006 tuy nhiên nhiều cơ quan, tổ chức, người dân vẫn còn chưa biết đến (họ thường vẫn chỉ nhắc đến luật sư); số lượng tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TGPL vẫn ở mức độ.
- Số lượng vụ việc TGPL do cơ quan quản lý TGPL đánh giá chưa được nhiều, công tác quản lý chất lượng, kiểm tra, thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa được triển khai thường xuyên…
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập bao gồm: khả năng tiếp cận dịch vụ TGPL của người dân còn hạn chế do nhận thức của người dân về TGPL còn chưa cao, hiệu quả truyền thông về TGPL và việc lan tỏa tác dụng, đóng góp của công tác TGPL vào cải cách công tác tư pháp và an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội còn ở chừng mực, chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò của công tác này; trách nhiệm phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định; nhiều luật sư không hành nghề thực hiện hoạt động tranh tụng trên thực tế, cơ chế khuyến khích luật sư tham gia TGPL vẫn còn ở mức độ; hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL chưa tương ứng tích hợp với cơ sở dữ liệu về dân cư, hộ tịch, an sinh xã hội... nên chưa thực sự thuận lợi cho người dân đến yêu cầu TGPL; kinh phí dành cho hoạt động TGPL còn chưa bảo đảm, cơ sở vật chất các Trung tâm TGPL nhà nước chưa được quan tâm đúng mức...
III. Yêu cầu đặt ra, quan điểm, mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và đổi mới tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
1. Yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong tình hình mới
Cũng như trên thế giới, xác định TGPL là một hoạt động cần thiết, đồng hành cũng quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Xu hướng phát triển của TGPL trong thời gian tới ở Việt Nam tiếp tục xác định hoạt động trợ giúp pháp lý là bền vững, là trách nhiệm của Nhà nước cho người nghèo, người có công với cách mạng, các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội. Bởi vì, dù xã hội phát triển đến đâu vẫn tồn tại những người nghèo, người yếu thế, người dễ tổn thương trong xã hội. Và khi vẫn còn những người cần đến sự trợ giúp như vậy thì trợ giúp pháp lý vẫn tồn tại với tư cách là trách nhiệm, là công cụ của Nhà trước trong bảo đảm quyền con người tại Việt Nam.
Trong tình hình mới, trước yêu cầu triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Năng lực quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý của các cơ quan quản lý được tăng cường, bảo đảm chỉ đạo, điều hành trong hoạt động trợ giúp pháp lý theo hướng chuyên nghiệp, tiến lên hiện đại.
- Xác định được vị trí, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý Việt Nam:
+ Trở thành trụ cột trong việc bảo đảm quyền tiếp cận pháp luật cho một bộ phận lớn người dân trong xã hội (45% dân số), qua đó, tạo sự công bằng trong tiếp cận công lý và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp nói riêng và trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung.
+ Trở thành nước có hoạt động trợ giúp pháp lý tiên tiến, phát triển trên bản đồ trợ giúp pháp lý khu vực và thế giới.
2. Quan điểm trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong tình hình mới
- Lấy người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm, bảo đảm giúp người dân tiếp cận hoạt động trợ giúp pháp lý kịp thời, thuận lợi, có chất lượng và ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước, tạo dựng uy tín của tổ chức trợ giúp pháp lý, góp phần khẳng định vị trí, vai trò của cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước trong việc giúp người thuộc diện được trợ giúp pháp lý được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi có nhu cầu.
- Sử dụng có hiệu quả nguồn lực Nhà nước dành cho hoạt động trợ giúp pháp lý và huy động nguồn lực xã hội tham gia hoạt động này.
3. Mục tiêu từ nay đến 2030, định hướng đến 2045
- Mục tiêu giai đoạn 2022 – 2030: Phấn đấu trở thành nước có hoạt động TGPL tiên tiến trên bản đồ TGPL khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu TGPL của người dân sớm, kịp thời và có chất lượng (thể chế TGPL tiếp tục được hoàn thiện; tổ chức của cơ quan, tổ chức TGPL ở Trung ương và địa phương được củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực; có số lượng người được thụ hưởng TGPL miễn phí rộng lớn thuộc hàng đầu trên thế giới; lĩnh vực TGPL bao trùm, sâu rộng, thiết thực; triển khai hiệu quả công nghệ thông tin trong quản lý và thực hiện TGPL; thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho người dân trong thụ hưởng dịch vụ; chất lượng dịch vụ được nâng cao; có cơ chế kiểm soát, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL sớm, kịp thời…).
- Mục tiêu giai đoạn 2031 – 2045: Nghiên cứu, quy định quyền tiếp cận TGPL là quyền cơ bản của công dân ghi nhận trong Hiến pháp – Văn bản pháp luật cao nhất, tạo cơ chế bảo đảm bất kỳ người dân không phân biệt giàu hay nghèo đều được hưởng công bằng trước công lý. Phấn đấu trở thành nước có hoạt động TGPL phát triển, toàn diện trên bản đồ TGPL khu vực và thế giới. Đưa hoạt động TGPL là một công cụ quan trọng của Nhà nước, trở thành “điểm sáng” của Việt Nam và trên thế giới về bảo vệ quyền con người, quyền công dân và trong việc thực thi các cam kết quốc tế. Chất lượng dịch vụ TGPL được nâng cao theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng tối đa yêu cầu trợ giúp pháp lý của người dân một cách kịp thời, có chất lượng cao, bảo đảm tính hiệu quả một cách rõ nét.
IV. Đề xuất nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và đổi mới tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
Trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, mà trực tiếp nhất là yêu cầu từ thực tiễn cuộc sống phát sinh, để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, đóng góp tích cực hơn nữa vào sự phát triển của ngành tư pháp, vì một nền Tư pháp vì dân, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và đổi mới tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 như sau:
- Giai đoạn từ 2022 – 2030
- Đánh giá việc thực hiện Luật TGPL năm 2017 và xem xét các điều kiện về nguồn lực nghiên cứu, đề xuất sửa đổi một số điều của Luật:
+ Mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý theo hướng nghiên cứu mở rộng các đối tượng là người thuộc hộ thoát nghèo, người thuộc hộ có mức sống trung bình ở khu vực nông thôn khi bị buộc tội – bởi vì khi bị buộc tội là khi nguy cơ họ bị tước tự do cao nhất, là khi họ cần đến sự giúp đỡ từ Nhà nước nhất.
+ Quy định về chế định luật sư công/luật sư trợ giúp pháp lý, xác định đây là chức danh tư pháp; chuyển đổi tên gọi chức danh Trợ giúp viên pháp lý thành chức danh luật sư công/luật sư trợ giúp pháp lý được nhà nước trả lương để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà Nước.
- Xây dựng các Đề án của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động, uy tín của các cơ quan, tổ chức TGPL nhà nước; về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác TGPL nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đối với cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tư pháp.
- Triển khai hiệu quả việc thực hiện cơ chế người thực hiện TGPL trực ở trụ sở hoặc trực qua điện thoại tại một số cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, nhà tạm giam, tạm giữ, tòa án) giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận sớm với TGPL, đặc biệt là ở những địa phương có tỷ lệ người thuộc diện TGPL cao, điều kiện cơ sở vật chất của các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm, có nguồn nhân lực TGPL từ đó góp phần bảo đảm đáp ứng được nhu cầu TGPL của người dân một cách nhanh chóng và kịp thời nhất.
- Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về TGPL của người dân thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu từng lĩnh vực hoặc các hình thức chia sẻ kinh nghiệm…
- Có phương thức truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; có quy định khuyến khích, vinh danh, động viên tổ chức, cá nhân tham gia, thực hiện TGPL đóng góp vào hoạt động TGPL, đa dạng hóa việc cung cấp dịch vụ TGPL....
- Vận hành, khai thác, sử dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu về trợ giúp pháp lý, Cổng thông tin điện tử trợ giúp pháp lý; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin theo hướng số hóa cơ sở dữ liệu về trợ giúp pháp lý để chia sẻ, kết nối, tích hợp dữ liệu người thuộc diện được TGPL với cơ sở dữ liệu quốc gia và các bộ, ngành có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả quản lý điều hành, hỗ trợ người dân yêu cầu TGPL trực tuyến, đơn giản hóa và giảm tải thủ tục hành chính trong hoạt động TGPL, tiết kiệm chi phí đi lại, chứng minh thuộc diện đối tượng... Tăng cường phối hợp, kết nối với Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc áp dụng công nghệ điện tử, chuyển đổi số đối với việc thực hiện TGPL trong tố tụng. Chuẩn bị cơ sở vật chất và công nghệ tương thích kết nối với Tòa án để thực hiện tranh tụng trực tuyến (Trung tâm TGPL nhà nước là một điểm cầu trong phiên tòa trực tuyến).
- Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện bộ công cụ, hướng dẫn tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác TGPL và chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL theo hướng dễ áp dụng và phản ánh đúng, khách quan chất lượng dịch vụ TGPL trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, hướng tới sự hài lòng và tin cậy của họ khi sử dụng TGPL.
- Có cơ chế hữu hiệu quản lý, điều phối nguồn lực bảo đảm cho hoạt động TGPL trên toàn quốc, giám sát và kiểm soát chất lượng dịch vụ TGPL do các tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL cung cấp cho người được TGPL.
- Tiếp tục triển khai chính sách trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm an sinh xã hội, giảm nghèo về mặt pháp luật.
2. Giai đoạn 2031 - 2045
- Khi tổng kết, xây dựng sửa đổi Hiến pháp, nghiên cứu đề xuất đưa nội dung quyền được TGPL là một quyền cơ bản của công dân trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nghiên cứu các quy định, có cơ chế đối với Trung tâm TGPL nhà nước ở địa phương tương xứng với vị trí là một đơn vị sự nghiệp trọng điểm, nòng cốt cung cấp dịch vụ công thiết yếu của ngành tư pháp, của Nhà nước phục vụ cải cách tư pháp nói riêng và trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung. Trung tâm cần được vận hành với tư cách là một tổ chức hành nghề chuyên nghiệp, hiện đại. Sửa đổi quy định về phạm vi thực hiện TGPL theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính mà người thực hiện TGPL được hành nghề trong phạm vi toàn quốc...
- Xây dựng lực lượng trợ giúp viên pháp lý/luật sư công/luật sư trợ giúp pháp lý có trình độ năng lực và kỹ năng hàng đầu; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thực hiện TGPL tiên tiến, hiện đại.
- Kế thừa, phát triển các kết quả đã đạt được của giai đoạn 2022 – 2030 để đưa hoạt động TGPL lên tầm chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng nhanh, hiệu quả nhu cầu người dân.../.
Phòng Tài chính và Quản lý chất lượng TGPL
Nguồn: https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=1899&l=Nghiencuutraodoi&fbclid=IwAR1wlaEcU6LmYQn8Oq0jvT3I-f5AJuRK8jNI7ZjfepxLgU_ShnVSIhDa50Y
[1] Theo Báo cáo số 35-BC/CCTP ngày 12/3/2014 tổng kết 08 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
[2] khoản 1 Điều 4 Luật TPGL quy định “ Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước”
[3] Điều 68 Hiến pháp Thái Lan, Điều 23 Hiến pháp Bỉ, Nhiệm vụ 35 Hiến pháp Nam Phi, Điều 39A Hiến pháp Ấn Độ, Điều 48 Hiến pháp nước Cộng hòa Liên bang Nga 1993, Điều 177 Hiến pháp nước Cộng hòa Dominica 2002, Điều 24 Hiến pháp Tây Ban Nha...
[4] Ví dụ: ở Tại Hà Lan, bị cáo trong các vụ án hình sự mà có thể áp dụng hình phạt tù là đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí hoàn toàn. Các đối tượng khác, căn cứ vào mức thu nhập, tài sản, tình trạng hôn nhân và các điều kiện khác, người yêu cầu trợ giúp pháp lý phải nộp một khoản tiền nhất định.
ở Ailen, chỉ miễn phí hoàn toàn đối với nạn nhân bị mua bán; trẻ em. Các đối tượng khác sẽ thu phí dựa trên tình trạng thu nhập.
[5] Ví dụ như: dù Điều 1 Luật Trẻ em 2016 của Việt Nam quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” nhưng quy định trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý đã bảo đảm quyền không chỉ cho người dưới 16 tuổi (trẻ em) mà đã nội luật hoá nội dung Công ước quốc tế và thể hiện tính ưu việt hơn, cụ thể:
- Theo quy định của Công ước, người dưới 18 tuổi bị tước quyền từ do có quyền được trợ giúp pháp lý[5] thì Luật TGPL Việt Nam đã nội luật hoá đầy đủ nội dung này, quy định tất cả người dưới 18 tuổi bị buộc tội[5] được trợ giúp pháp lý, không phân biệt giới tính, dân tộc, tình trạng khó khăn tài chính, có nơi nương tựa hay không...
- Ngoài được TGPL trong lĩnh vực tố tụng hình sự khi là người bị buộc tội, theo Luật TGPL thì người dưới 16 tuổi (trẻ em) còn được trợ giúp pháp lý khi là người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan... trong lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính.
- Bên cạnh đó, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự có khó khăn về tài chính cũng được trợ giúp pháp lý (điểm đ khoản 7 Điều 7 Luật TGPL).
[6] Giảm 95 Chi nhánh so với thời điểm 31/12/2014 do giải thể, sáp nhập dựa trên đánh giá hiệu quả hoạt động.
[7] Số liệu tính đến 31/12/2014
[8] Số liệu tính đến 31/12/2021
[9] thời điểm Luật TGPL năm 2017 có hiệu lực
[10] Ước tính số lượng người thuộc diện TGPL ở Việt Nam có khoảng 45% dân số, dự tính sẽ còn tăng theo quy định về chuẩn hộ nghèo và hộ cận nghèo giai đoạn mới của Chính phủ