1. Những đặc điểm chung về quyền con người của phụ nữ trong tố tụng hình sự
Quyền con người của phụ nữ là một thuật ngữ để chỉ các quyền của phụ nữ với tư cách là một con người và được xem xét thông qua lăng kính giới1. Theo đó, quyền con người của phụ nữ được xem là tất cả các quyền con người mà nhân loại tiến bộ thừa nhận và có thêm những quyền mang đặc thù giới nữ2. Như vậy, khái niệm quyền con người của phụ nữ là một khái niệm vừa tổng hợp lại vừa đặc thù, là những đặc quyền vốn có của một con người như nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích, năng lực được thừa nhận bao gồm cả đặc thù giới và được bảo hộ bằng pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) được thể hiện trong nhiều văn kiện quốc tế như: Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (CEDAW); Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984 (CAT); Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi...
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong TTHS là việc đảm bảo các điều kiện cần và đủ cho việc thực hiện các quyền vốn có của một con người và các quyền đặc thù về giới khi mà người phụ nữ tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo vệ cho phụ nữ khỏi những xâm hại tiêu cực, gây tổn thương các quyền con người của phụ nữ, giúp họ tránh các nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tham gia tố tụng dù họ tham gia với tư cách là bị hại hay người bị buộc tội. Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong TTHS là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Vì vậy, quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực TTHS phải được ghi nhận và bảo vệ đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp. Các quy định của pháp luật TTHS phải phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực của pháp luật quốc tế, được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Có thể nhận thấy quyền của phụ nữ được đề cập đến trong BLTTHS năm 2015, thể hiện dưới hai góc độ chính đó là quyền bình đẳng và quyền đặc thù. Quyền bình đẳng được thể hiện đó là bảo đảm sự bình đẳng của nam nữ về mọi mặt, “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội, nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”3. Bằng việc BLTTHS năm 2015 vẫn giữ nguyên nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật” (Điều 9) và sửa đổi các thuật ngữ cho phù hợp, thống nhất nhằm thể hiện nhất quán về quan điểm bình đẳng giới (không phân biệt giới tính) đã cho thấy sự quan tâm của Nhà nước ta trong vấn đề đặc biệt quan tâm đến phụ nữ kể cả khi họ là những người bị buộc tội hay bị hại trong các vụ án hình sự. Đây là nguyên tắc có tính khái quát cao. Người tham gia TTHS nói chung và phụ nữ nói riêng đều được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên cơ sở các nguyên tắc đó.
Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa nam và nữ nhưng không cào bằng, không bị đối xử cứng nhắc như nam giới mà xét đến các hoàn cảnh đặc biệt của phụ nữ. Do đó, pháp luật TTHS đã có những qui định cho phụ nữ một số quyền đặc thù.
Một số quan điểm cho rằng, những quyền đặc thù của phụ nữ trong TTHS thực chất là các quyền ưu tiên. Quyền bình đẳng giữa nam và nữ có nội dung rất quan trọng là phải “ưu tiên” phụ nữ bên cạnh việc bình đẳng với nam giới4, theo đó “ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có điều kiện, tiêu chuẩn như nam”5. Tuy nhiên, đó là quyền đặc thù xuất phát từ những đặc điểm riêng về sinh lý, chức năng riêng của phụ nữ. Phụ nữ vốn có những đặc điểm riêng về giới, sinh lý, chức năng, trong đó có vai trò làm mẹ và nuôi dạy con cái (và chức năng sinh nở, làm mẹ chỉ xuất hiện trong một thời điểm, một độ tuổi nhất định trong cuộc đời phụ nữ mà thôi). Vì vậy phụ nữ cần được xếp vào nhóm có nguy cơ cao bị tổn thương trong một số vụ án đặc trưng liên quan đến phụ nữ. Do đó phụ nữ cần được hưởng quyền đặc thù này trong trường hợp nữ có điều kiện, tiêu chuẩn như nam.
Trước đây, BLTTHS năm 2003 cũng đã có các qui định theo tiêu chí hai quyền này (quyền bình đẳng và quyền đặc thù) để bảo vệ người phụ nữ tuy nhiên các qui định này vẫn còn chưa đầy đủ do đó thực tiễn thực hiện còn nhiều vướng mắc. BLTTHS năm 2015 đã có những bổ sung thêm các qui định này theo hướng tăng cường bảo đảm các bình đẳng quyền và quyền đặc thù của phụ nữ đặc biệt là người phụ nữ khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị buộc tội.
2. Quyền con người của phụ nữ là bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Pháp luật TTHS Việt Nam hầu như không có qui định đặc biệt nào dành cho bị hại là phụ nữ khi họ tham gia vào quá trình TTHS. Các quyền con người của bị hại là phụ nữ được thực hiện như các quyền con người của bị hại nói chung. Tuy nhiên, có một số qui định gián tiếp nhưng lại khá quan trọng đối với phụ nữ khi tham gia tố tụng với tư cách là bị hại. Khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm qui định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Như vậy trong những trường hợp rơi vào khoản 1 điều luật này, bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Trong số các tội danh mà bị hại có quyền yêu cầu khởi tố, có những tội danh mà hầu hết bị hại là phụ nữ đó là các tội danh về hiếp dâm, hoặc một số tội danh khác mà phụ nữ là bị hại trong các vụ án cố ý gây thương tích (thường trong các vụ về bạo lực gia đình)... Trong khi phần lớn các quan điểm cho rằng qui định này là một điểm tiến bộ, thể hiện sự quyền tư tố của bị hại, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thì một số quan điểm lại cho rằng qui định này là không hợp lý, bởi vì: nhiều phụ nữ không biết đến qui định này vì thiếu hiểu biết. Ở các vùng nông thôn, phụ nữ thậm chí không thể đi một quãng đường xa đến trụ sở công an để nộp đơn khiếu nại. Phụ nữ cũng bận việc gia đình và ít có thời gian cũng như tiền bạc để chuẩn bị đơn khiếu nại.6
Thực tế cho thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, nhiều bị hại là phụ nữ lại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự vì lo sợ bị đối tượng bạo hành, trả thù, làm cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử hoặc có bị hại không đồng ý làm đơn yêu cầu khởi tố vì mặc cảm, không muốn tham gia vào quá trình tố tụng (nhất là trong các vụ án hiếp dâm mà người thực hiện lại là người trong gia đình hoặc có quan hệ thân thiết, mặc dù có thể có người làm chứng là thành viên trong gia đình).
Trong khi đó chuẩn mực quốc tế lại qui định: Trách nhiệm chính trong việc điều tra và khởi tố thuộc về công an và hệ thống tư pháp, không phụ thuộc vào nạn nhân của bạo lực, bất kể mức độ và loại thương tật gì7. Các nghiên cứu quốc tế cho thấy, việc phụ thuộc quá mức vào lời khai của nạn nhân hoặc mong muốn theo đuổi khiếu kiện của họ có thể làm giảm hiệu lực của công tác điều tra8. Như vậy, Cơ quan điều tra cần tiến hành điều tra vụ việc, kể cả trong trường hợp có căn cứ qui định tại khoản 1 Điều 155 mà bị hại không muốn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Bên cạnh đó, việc thu thập chứng cứ trong các vụ án hiếp dâm là rất khó khăn. Một trong những khó khăn đó là lấy lời khai từ phía bị hại. Rất nhiều phụ nữ có tâm lý ngại khai báo về hành vi phạm tội của bị can. Để chứng minh mình bị hiếp dâm và cưỡng ép quan hệ tình dục, bị hại phải chứng minh là đã bị quan hệ tình dục “trái với mong muốn” của bản thân. Qua trao đổi với đại diện công an, qui định “có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự” đã đặt trách nhiệm chứng minh tội phạm lên bị hại và đã biến nội dung khai báo của nạn nhân thành yếu tố trung tâm trong việc xác định tội phạm tình dục.9
Thực tế cũng cho thấy, việc thu thập chứng cứ trong các vụ án làm cơ sở cho việc kết luận điều tra vụ án cũng gặp khá nhiều khó khăn, đặc biệt là các vụ án về xâm hại tình dục đối với trẻ em gái. Các vụ án này thường xảy ra ở nơi vắng vẻ, chỉ có đối tượng và nạn nhân tại hiện trường, không có người làm chứng trực tiếp, trong khi các đối tượng bị tố cáo thường là ngoan cố, khai báo quanh co, chối tội hoặc chỉ nhận một phần hành vi phạm tội như có hành vi dâm ô hoặc do bộ phận sinh dục của bị hại còn quá nhỏ vì chưa phát triển đầy đủ, khi bị xâm hại, các cháu thường dãy dụa, la hét kêu đau nên hầu như hành vi giao cấu đều ở mức độ chưa đạt về hậu quả hoặc chỉ có ý định cọ sát dương vật của mình vào âm hộ của nạn nhân nhằm thỏa mãn dục vọng... dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau trong việc đánh giá chứng cứ và xác định tội danh của người thực hiện hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, để có căn cứ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các đối tượng về các tội xâm hại tình dục trẻ em, thì cần phải có kết luận giám định pháp y và những vật chứng có liên quan. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp khi trẻ em bị xâm hại tình dục, gia đình biết nhưng lưỡng lự trong cách giải quyết do lo sợ ảnh hưởng đến tương lai của các em, dẫn đến trình báo muộn, không biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ quan chức năng, nên đã vô tình tạo điều kiện để người thực hiện hành vi phạm tội có đủ thời gian xóa hết dấu vết. Có một số trường hợp, sau khi bị xâm hại tình dục suốt một thời gian dài, người bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm tội do sợ danh dự, nhân phẩm của bản thân và gia đình bị ảnh hưởng. Do đó, việc thu thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp nhiều khó khăn (vùng kín bị hóa sẹo, không thu được tinh dịch...) nên rất khó để xác định người bị hại có bị hiếp dâm hay không và ai là người thực hiện hành vi10. Để nhanh chóng kịp thời thu thập chứng cứ trong các vụ án xâm hại tình dục trẻ em thì sự phối hợp và kết quả trả lời của các cơ quan liên quan là rất quan trọng. Ngay ở thời điểm khám ban đầu, nếu cơ quan y tế thăm khám không mô tả rõ, không mô tả chi tiết, đầy đủ các thương tích trên cơ thể nạn nhân cơ quan có thẩm quyền cũng gặp nhiều khó khăn trong việc xác định tội danh và hành vi của đối tượng phạm tội. Do vậy, ngay từ ban đầu các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ hơn để có kết quả chính xác giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ quyết định giải quyết vụ việc. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần khẩn trương lấy lời khai bị hại, người làm chứng, người bị buộc tội và bảo đảm cho bị hại được thực hiện đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đặc biệt những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần tôn trọng, lắng nghe các phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em và kịp thời đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân cử người giám hộ, người đại diện, người trợ giúp pháp lý... cho bị hại là trẻ em.
Về việc xét xử kín thì Tòa án có thể quyết định việc xét xử kín trong các trường hợp đặc biệt, đó là: khi cần giữ bí mật nhà nước, giữ thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hay cần giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai (Điều 25 BLTTHS năm 2015). Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 thì: “Đương sự gồm: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Như vậy, bị hại không phải là “đương sự” theo sự giải thích trong qui định tại Điều 4. Cả hai điều luật trên không đề cập đến bị hại là phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án xét xử kín để giữ bí mật đời tư để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho họ đặc biệt là trong những vụ án hiếp dâm có thể ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của họ khi mang ra xét xử công khai. Đây cũng là một trong những điểm còn hạn chế của BLTTHS năm 2015. Theo chuẩn mực quốc tế, các vụ bạo lực đối với phụ nữ phải được xử kín để bảo vệ danh tính của nạn nhân và bảo đảm quá trình tố tụng công bằng và vô tư11. Để đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, các chuẩn mực quốc tế cũng qui định: đương sự phải được biết về quyền được yêu cầu đảm bảo bí mật trong xét xử. Các biện pháp khác cũng phải được áp dụng để đảm bảo nạn nhân không phải tiếp xúc với kẻ bạo hành trong thời gian xét xử. Ví dụ, ghế ngồi của nạn nhân được bố trí xa chỗ ngồi của bị cáo, hoặc tòa án có thể sắp xếp cho nạn nhân ngồi ở phòng khác và chỉ cần vào phòng xử án để lấy lời khai. Bị cáo có thể được đưa ra ngoài khi nạn nhân được đưa vào phòng xử án để họ không nhìn thấy nhau. Lời khai được công bố tại tòa. Tòa án cũng sẽ đảm bảo rằng bị cáo sẽ không hỏi những câu hỏi làm nạn nhân rơi vào tình huống khó xử và không liên quan tới vụ án đang xét xử12.
3. Quyền con người của phụ nữ bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Thứ nhất, quyền đặc thù của phụ nữ được thể hiện thông qua các quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của phụ nữ đang ở trong những thời kỳ đặc biệt (có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng), xuất phát từ chính sách nhân đạo của Nhà nước mà BLTTHS năm 2015 có những qui định mang tính “ưu tiên” đối với người phụ nữ khi họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam hoặc khi họ tham gia với tư cách là người bị buộc tội.
Khoản 4 Điều 119 qui định: “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi… mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
Với quy định này cho thấy, BLTTHS năm 2015 đã qui định chặt chẽ hơn để loại trừ các trường hợp phải áp dụng biện pháp tạm giam mặc dù họ là phụ nữ đang có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Các quy định này đã thể hiện khá rõ quyền ưu tiên đối với phụ nữ. Bởi vì trong điều kiện giam giữ, người phụ nữ không thể bảo đảm được sức khỏe, tâm lý và các nhu cầu sinh hoạt khác của một người đang mang thai và đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và còn ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của đứa trẻ. Phụ nữ đang có thai là đối tượng được chăm sóc đặc biệt cả về thể chất và tinh thần và đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi hơn lúc nào hết rất cần sự chăm sóc đặc biệt của người mẹ. Như vậy qui định trong điểm b, c khoản 4 Điều 119 đã làm rõ hơn các hành vi cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử được quy định trong điểm b khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003, tránh việc quy định chung chung, không rõ ràng, dẫn đến thực tiễn khó thực hiện hoặc thực hiện không chính xác làm ảnh hưởng đến quyền của người phụ nữ. Chỉ những người phụ nữ tiếp tục phạm tội (điểm b) và có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này (điểm c) mới bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Như vậy, ở Việt Nam, chỉ khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thì bị can là phụ nữ mới được Bộ luật TTHS quy định những trường hợp không bị tạm giam như trên. Tuy nhiên, đối với biện pháp ngăn chặn tạm giữ thì không có các qui định đặc biệt này. Điều đó cho thấy, kể cả phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ cũng không phải là đối tượng ngoại lệ khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Các chuyên gia của Liên hợp quốc khuyến nghị rằng quyết định tạm giữ cũng nên loại trừ đối tượng này, tuy nhiên điều này trên thực tế chưa được thực hiện13.
Bên cạnh việc quy định về biện pháp tạm giam đối với phụ nữ trong BLTTHS năm 2015, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định 120/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018. Trong đó, Nghị định 120/2017/NĐ-CP quy định chi tiết về chế độ ăn, mặc, chăm sóc y tế (chế độ) đối với người bị tạm giữ, tạm giam; kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam; kinh phí bảo đảm chăm sóc, nuôi dưỡng đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi ở cùng mẹ trong cơ sở giam giữ... Theo đó, phụ nữ cũng được hưởng các chế độ như nam giới khi bị tạm giữ, tạm giam và các chế độ đặc biệt khác. Ngoài những tiêu chuẩn chung, người bị tạm giữ, tạm giam là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hưởng thêm 30% định lượng về thực phẩm thịt, cá. Người sinh con khi bị tạm giữ, tạm giam được thanh toán viện phí và bồi dưỡng bằng hiện vật giá trị tương tương 30 kg gạo tẻ loại trung bình. Và nếu là phụ nữ thì được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ giá trị tương đương 2 kg gạo tẻ loại trung bình/1 tháng. Như vậy, mặc dù trong các điều kiện kinh tế khó khăn, pháp luật Việt Nam cũng vẫn chú trọng đến việc bảo đảm quyền cho phụ nữ nói chung và trong quá trình giam giữ nói riêng.
Thứ hai, quyền đặc thù của phụ nữ được thể hiện thông qua các qui định về áp dụng biện pháp cưỡng chế khám xét và xem xét dấu vết trên thân thể:
Khoản 2 Điều 194 BLTTHS quy định: “Việc khám xét người phải do người cùng giới thực hiện và có người khác cùng giới chứng kiến. Việc khám xét không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét” và khoản 2 Điều 203 qui định: “Việc xem xét dấu vết trên thân thể phải do người cùng giới tiến hành và phải có người cùng giới chứng kiến. Trường hợp cần thiết thì có thể mời bác sĩ tham gia. Nghiêm cấm xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị xem xét dấu vết trên thân thể”.
Việc quy định trong khoản 2 Điều 194 và khoản 2 Điều 203 BLTTHS năm 2015 là khẳng định rõ hơn, nhấn mạnh hơn về hoạt động khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể khi phụ nữ là đối tượng bị khám xét hay xem xét dấu vết trên thân thể. Các qui định này nhằm tăng cường bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét đặc biệt là phụ nữ khi họ đang là những người “yếu thế” phải chịu áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Cơ quan điều tra.
4. Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, cần bổ sung thêm vào BLTTHS năm 2015 một số quyền con người theo Công ước quốc tế về quyền con người đối với phụ nữ khi họ phải tham gia vào các vụ án hình sự.
Điều 3 Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước phải thi hành mọi biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp pháp lý... để bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, nhằm mục đích bảo đảm cho họ có thể thực hiện và được hưởng các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng nam nữ”. Bên cạnh đó, Điều 4 Công ước này khẳng định rằng, ngay cả khi phụ nữ đã được ghi nhận sự bình đẳng về mặt pháp lý, điều đó cũng không đủ để bảo đảm họ sẽ được đối xử một cách bình đẳng trong thực tế. Để đảm bảo quyền của phụ nữ, các quốc gia thành viên được cho phép sử dụng những biện pháp xử lý đặc biệt để bảo đảm quyền đặc thù của phụ nữ. Như vậy, cộng đồng quốc tế đã vượt qua quan điểm hẹp về bình đẳng theo nghĩa thông thường và thiết lập những mục tiêu của riêng nó là bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả. Các biện pháp đặc biệt tạm thời để chống lại sự phân biệt đối xử với phụ nữ được coi là cần thiết và hợp pháp để đạt được các mục tiêu này. Trong Khuyến nghị chung số 5 được thông qua tại Phiên họp lần thứ 7 (1988) của Ủy ban về xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ nêu rõ rằng: “Các quốc gia thành viên cần ban hành nhiều hơn các biện pháp đặc biệt tạm thời như là những hành động tích cực, sự đối xử ưu đãi hoặc hệ thống các chỉ tiêu để tăng cường việc bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ trong các lĩnh vực...”.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 của Việt Nam đã qui định khá đầy đủ về các quyền con người của phụ nữ theo các văn kiện pháp lý quốc tế nhưng vẫn còn những qui định chưa đầy đủ, chặt chẽ. Do đó, theo chúng tôi một số nội dung cần bổ sung, sửa đổi như sau:
Một là, cần bổ sung thêm qui định tại Điều 25 BLTTHS năm 2015 về việc xét xử kín đối với bị hại là phụ nữ trong những trường hợp cần thiết.
Đoạn 2, Điều 25 BLTTHS năm 2015 cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “... Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này qui định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, bị hại thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.
Hai là, cần bổ sung qui định không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng trừ một số trường hợp.
Như đã đề cập, BLTTHS năm 2015 chỉ qui định về trường hợp: “đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ một số trường hợp…” mà không qui định việc bắt, tạm giữ, bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng. Thời hạn tạm giữ dù ngắn nhưng cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần, sức khỏe đối với người phụ nữ khi mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng. Như vậy, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ, BLTTHS năm 2015 nên được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 117 như sau:
“Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giữ trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của người này.”
Ba là, cần sửa đổi, bổ sung các qui định của BLTTHS năm 2015 về một số nội dung khác như: bổ sung việc giải quyết các vụ án về xâm hại tình dục theo thủ tục rút gọn hoặc giảm thời hạn giải quyết vụ án để bảo đảm việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và kịp thời, tránh được những thương tổn về tâm lý và tinh thần cho phụ nữ, trẻ em gái khi phải tham gia một quá trình tố tụng quá dài; cần bổ sung cụ thể hơn nữa các quyền của nạn nhân trong quá trình TTHS (các biện pháp đặc biệt để tạo điều kiện cho nạn nhân cung cấp lời khai, quyền được trao đổi với cán bộ nữ,...).
Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác phòng chống tội phạm và nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm tốt hơn các quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái trong các vụ án hình sự.
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống các loại tội phạm đặc biệt là các loại tội phạm xâm phạm tình dục, mua bán phụ nữ và trẻ em, các tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình, công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm đòi hỏi các cấp, các ngành liên quan tới việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái cần phải thực hiện thường xuyên, quyết liệt hơn nữa. Các tỉnh, thành phố của Việt Nam cần thực hiện tốt các nội dung sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Công tác phòng, chống tội phạm phải được thực hiện trong tiến trình cải cách tư pháp, phải tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân và phải lấy chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn công trấn áp tội phạm.
- Thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân và người tham gia tố tụng là phụ nữ để mỗi người thấy được trách nhiệm của mình đối với việc bảo đảm quyền bình đẳng và quyền ưu tiên của phụ nữ trong các hoạt động TTHS.
- Tập trung điều tra, khám phá, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm, nhất là tội mua bán người, hiếp dâm, cưỡng dâm, xâm phạm tình dục trẻ em…
- Cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với các các tổ chức chính như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp, Đoàn thanh niên, các cơ sở giáo dục, chính quyền xã phường, thị trấn địa phương để vừa bảo đảm việc giải quyết vụ án được thuận lợi, vừa thực hiện tốt được các biện pháp phòng ngừa đối với các loại tội phạm và có thể giúp đỡ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại là phụ nữ hoặc trẻ em gái trong những thời điểm thích hợp khi họ tham gia tố tụng.
Thứ ba, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong TTHS nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam.
Để bảo đảm quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái trong TTHS, đặc biệt là những phụ nữ và trẻ em gái là bị hại trong các loại tội phạm mua bán người, xâm hại, bóc lột tình dục xuyên quốc gia, Việt Nam cần tăng cường các hoạt động đàm phán, ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước trên thế giới hơn nữa, trong đó ưu tiên đàm phán, ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc. Bên cạnh việc củng cố, tăng cường và thiết lập hợp tác dẫn độ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có quan hệ truyền thống, các nước có chung biên giới và các nước thành viên của ASEAN để ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp. Việt Nam cần củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác với các cơ quan, tổ chức quốc tế có chức năng phòng, chống tội phạm trong khu vực và trên thế giới như Aseanpol, Interpol, UNODC cũng như các cơ quan tư pháp, cơ quan bảo vệ pháp luật của các quốc gia trong khu vực và thế giới. Về nội dung hợp tác, cần chú trọng đến các lĩnh vực như: Trao đổi thông tin, cơ sở dữ liệu liên quan đến tình hình tội phạm; truy nã tội phạm; chuyển giao các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự; tư vấn, hoạch định chính sách, pháp luật; trao đổi kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ; đào tạo cán bộ giữa Cảnh sát Việt Nam với Aseanpol, Interpol, UNODC cũng như giữa các cơ quan tư pháp của Việt Nam với các cơ quan tư pháp của các nước trong khu vực và thế giới. Về hình thức hợp tác, thông qua các kỳ họp, các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế về tổng kết hoặc triển khai chương trình hành động đấu tranh phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ... do Đại hội đồng Aseanpol, Interpol, UNODC hoặc do các cơ quan tư pháp của các nước phối hợp tổ chức. Các cơ quan, tổ chức này sẽ đưa ra những tổng kết, đánh giá về tình hình tội phạm, về kết quả hợp tác tương trợ tư pháp hình sự cũng như ban hành các Nghị quyết để rút kinh nghiệm hoặc hướng dẫn, khuyến cáo các cơ quan đấu tranh phòng, chống tội phạm của các nước thành viên áp dụng. Bên cạnh đó, cần rà soát tổng thể các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký trước khi có Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 để tiến hành đàm phán sửa đổi, bổ sung hoặc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước liên quan. Việc tạo ra một khuôn khổ pháp lý chung giữa các quốc gia trong đấu tranh chống loại tội phạm mua bán người, xâm hại tình dục trẻ em là biện pháp ưu tiên hàng đầu. Vì vậy: (1) Cần đẩy mạnh ký hiệp định song phương hoặc đa phương về tương trợ tư pháp về hình sự, về dẫn độ tội phạm với các nước trong khu vực, trong đó nhấn mạnh đến việc hợp tác đấu tranh chống tội phạm du lịch tình dục; (2), Tổ chức các đoàn khảo sát, các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm này giữa các chuyên gia của các quốc gia trong khu vực và quốc tế; (3) Có cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia với các tổ chức chống tội phạm quốc tế và khu vực như: Interpol, Aseanpol..., nhằm khai thác tối đa lợi thế của các tổ chức này trong việc phối hợp để truy tìm tội phạm.
Thứ tư, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp Nhân dân đặc biệt là Nhân dân tại các vùng biên giới và các khu du lịch trọng điểm của quốc gia về buôn bán người và xâm hại tình dục trẻ em. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật này phải có kế hoạch, chương trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể, trong đó chú trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền thông vào trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể các cấp... cần đẩy mạnh việc thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cư... Chú trọng hình thức tư vấn, tham vấn và vận động trực tiếp đối với gia đình và cộng đồng dân cư về kỹ năng bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi bị xâm hại. Bên cạnh đó, bản thân mỗi gia đình cần quan tâm quản lý con cái, người thân để bảo vệ con cái, người thân của mình. Mỗi người dân hãy nêu cao ý thức cảnh giác trong việc đấu tranh, phát hiện và tố giác kịp thời những hành vi sai trái và những biểu hiện bất minh của các đối tượng để báo ngay cho cơ quan chức năng có biện pháp xử lý kịp thời tránh để hậu quả nghiêm trọng.
5. Kết luận
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong TTHS là việc đảm bảo các điều kiện cần và đủ cho việc thực hiện các quyền vốn có của một con người và các quyền đặc thù về giới khi mà người phụ nữ tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo vệ cho phụ nữ khỏi những xâm hại, gây tổn thương các quyền con người của phụ nữ, giúp họ tránh các nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tham gia tố tụng dù họ tham gia với tư cách là bị hại hay người bị buộc tội. Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong TTHS là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Quyền của phụ nữ trong TTHS Việt Nam được thể hiện dưới hai dạng: quyền bình đẳng và quyền đặc thù. Bài viết đã đề cập quyền bình đẳng và ưu tiên của phụ nữ trong tố tụng hình sự được thể hiện qua hai đối tượng đó là người bị buộc tội và bị hại khi họ tham gia vào các vụ án hình sự. Hiện nay các quyền này được quy định khá đầy đủ trong BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên khi thực hiện các quyền này vẫn còn hạn chế nhất định.
• PGS.TS. Đỗ Thị Phượng*
Khoa Pháp luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
1. Charlotte Bunch and Samantha Frost (2000), Inter International Encyclopedia of Women: Global Women’s Issues and Knowledge, “Women’s human rights: An introduction”, Routledge, 2000, p.15. (tạm dịch: Bách khoa toàn thư thế giới về phụ nữ: Những vấn đề và tri thức toàn cầu về phụ nữ, Giới thiệu về các quyền con người của phụ nữ).
3. Xem Trần Thị Hồng Lê (2016), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Ngân hàng thế giới (2011). Việt Nam: Đánh giá Giới tại Việt Nam. Hà Nội.
5. Liên hợp quốc, Đại hội đồng (năm 2011). Nghị quyết A/RES/65/228 Tăng cường phòng ngừa tội phạm và ứng phó tư pháp hình sự với bạo lực đối với phụ nữ. Tham khảo tại: http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/RES/65/228
6. Phối hợp Hành động đối với các Vi phạm Quyền con người (2008). Yếu tố giới trong các vi phạm quyền con người: Trường hợp bạo lực giữa những người thân. Báo cáo cuối cùng giai đoạn 2004‐2007. Luxembourg: Văn phòng Xuất bản chính thức của Cộng đồng châu Âu.
7. Thảo luận với cán bộ công an trong quá trình xây dựng tài liệu tập huấn của UNODC. Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên hợp quốc (2011). Công tác phòng chống bạo lực gia đình: Tài liệu tập huấn cho ngành hành pháp và tư pháp tại Việt Nam (tái bản lần thứ 2), Hà Nội.
8. Chiongson, Rea Abada (2009), CEDAW và Pháp luật: Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở quyền và giới qua lăng kính CEDAW. Hà Nội: Quỹ Phát triển Phụ nữ Liên hợp quốc.
9. UNODC và UN Woman (2013), Đánh giá tình hình phụ nữ trong hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam, Hà Nội, trang 23.
10. Chiongson, Rea Abada (2009). CEDAW và Pháp luật: Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở quyền và giới qua lăng kính CEDAW. Hà Nội: Quỹ Phát triển Phụ nữ Liên hợp quốc.
11. Ban Phụ nữ và Hệ thống tư pháp hình sự (2009). Đưa giới vào công lý – từ Chính sách đến Thực tiễn: Báo cáo cuối cùng của Ban Phụ nữ và Hệ thống tư pháp hình sự. London: Fawcett Society.
12. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, NXB Chính trị Quốc gia Hà nội, Điều 26.
13. Trần Thị Liên (2015), Hoàn thiện BLTTHS nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 4 năm 2015, tr. 23.
14. Luật Bình đẳng giới năm 2006, điểm e khoản 1 Điều 19.
15. Lê Thị Hồng Nhung (2019) Một số kinh nghiệm giải quyết các vụ án xâm hại tình dục đối với trẻ em. http://vkshanoi.gov.vn/chi-tiet-tin/mot-so-kinh-nghiem-giai-quyet-cac-vu-an-xam-hai-tinh-duc-doi-voi-tre-em-14591.html.