Hơn hai mươi năm qua, sau khi Quy chế Dân chủ ở cơ sở được ban hành, các cấp ủy đã tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản, sáng tạo. Quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương trong cả nước được phát huy mạnh mẽ. Đó là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các cấp ủy, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Quy chế.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu dân chủ một cách dễ hiểu: Dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Người còn nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”(1). Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”(2); thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Để quyền làm chủ của nhân dân đi vào thực tế của đời sống xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ, muốn phát huy sức mạnh và sự sáng tạo vô địch của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải tạo ra được những thể chế, chủ trương, chính sách thích hợp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo đảm, sẽ tạo nền tảng, cơ sở vững chắc để các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện được điều đó, cần dân chủ hóa mọi hoạt động của Đảng và của cả hệ thống chính trị nhằm tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng, bảo vệ đất nước. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được thể hiện trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và được thể chế thành văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Xuất phát từ thực trạng yếu kém của hệ thống chính trị cơ sở và mất dân chủ ở cơ sở diễn ra nghiêm trọng ở không ít nơi, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở một số địa phương, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” để cụ thể hóa Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh - coi đây là một khâu quan trọng và cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở - nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải đặt trong tổng thể mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(3), nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng đang xảy ra ở không ít nơi. Qua đó, nhằm xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần quan trọng vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các Nghị quyết số 45/1998, Nghị quyết số 55/1998, Nghị quyết số 60/1998, Pháp lệnh số 34/2007 và Chính phủ ban hành các Nghị định số: 29/1998, 71/1998, 07/1999, 79/2003, 87/2007 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn đã tạo ra cơ chế cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân.
Nhằm đáp ứng tình hình mới của cách mạng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức sơ kết, tổng kết, ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phù hợp với từng giai đoạn. Trong đó khẳng định những giá trị của Chỉ thị số 30 - CT/TW, yêu cầu tiếp tục quán triệt, thực hiện Chỉ thị một cách đồng bộ, đi vào chiều sâu ở tất cả các loại hình cơ sở, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân; xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài. Kế thừa và tiếp nối quan điểm nhất quán đó, Văn kiện Đại hội XII của Đảng tập trung làm rõ tình hình, phương hướng, nhiệm vụ “tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”(4). Đồng thời, khẳng định: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”(5). Văn kiện của Đại hội XII cũng nêu rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”"(6). Đồng thời, đặt nhân dân là chủ thể và luôn đề cao vai trò to lớn của nhân dân; không chỉ nhấn mạnh phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mà còn nhấn mạnh yếu tố “dân thụ hưởng” - là vấn đề có tính quy luật, làm thì phải được thụ hưởng, nếu làm mà khôngthụ hưởng thì không tạo động lực để ai làm. Động lực chính là lợi ích. Lợi ích phải hài hòa tổng thể lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Một số kết quả về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước; góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, hương ước, quy ước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội được mở rộng hơn. Nhiều khó khăn trong quá trình phát triển được nhân dân bàn bạc, tháo gỡ, giải quyết có hiệu quả, như vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi triển khai thu hồi đất để thực hiện các công trình, dự án; hiến đất xây dựng các công trình, dồn điền, đổi thửa, vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; xây dựng các tập thể đoàn kết, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động trong các doanh nghiệp…, tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua, góp phần đưa đất nước ta vượt qua khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân
Thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến. Công tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của người dân, doanh nghiệp được quan tâm hơn trước. Các cơ quan nhà nước chú trọng quan tâm xây dựng các quy chế, quy định thực hiện dân chủ gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Việc công khai, dân chủ đã trở thành phương thức quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và góp phần nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân dân; đồng thời, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, góp ý cho cán bộ, công chức về phong cách, trách nhiệm, đạo đức, lối sống và sự tôn trọng nhân dân. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tiến bộ. Ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng, tổ hòa giải ở cơ sở nhiều nơi hoạt động khá hiệu quả, phát huy được phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân tại địa bàn dân cư. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đạt nhiều kết quả, một số nơi đã tổ chức được các hoạt động phản biện xã hội ở cấp huyện và cơ sở. Nhân dân tham gia tích cực hơn vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền. Quyền làm chủ của nhân dân, các hình thức dân chủ đại diện được phát huy, dân chủ trực tiếp được mở rộng; phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở góp phần đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao vai trò, trách nhiệm, uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, tích cực tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những năm qua, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đã phối hợp với các cơ quan nhà nước chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; tích cực tham gia xây dựng các quy chế, quy định ở xã, quy ước, hương ước ở thôn, tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do hội đồng nhân dân cấp xã bầu...
Những yếu kém, khuyết điểm cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở cũng còn những hạn chế, yếu kém, như công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa kịp thời; nhiều nơi thực hiện còn mang tính hình thức, đối phó. Việc công khai các nội dung liên quan theo quy định ở nhiều địa phương, cơ sở còn chưa đầy đủ, chưa tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận thông tin. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn hạn chế. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài Nhà nước, khu vực dân doanh còn nhiều khó khăn. Có lúc, có nơi còn tình trạng vi phạm dân chủ, gây bức xúc, khiếu kiện đông người, vượt cấp, nhưng giải quyết chưa triệt để, nhất là trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, đền bù, tái định cư khi thu hồi đất. Việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền làm chủ của nhân dân chưa kịp thời. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng ở nhiều nơi còn bất cập. Vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật.
Những yếu kém, khuyết điểm về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về dân chủ chưa đầy đủ, một số cấp ủy, chính quyền chưa tập trung chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc; chưa cụ thể hóa các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở; chưa coi trọng việc sửa đổi, bổ sung quy chế, quy ước sát với thực tiễn của từng loại hình cơ sở. Chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Việc sơ kết, tổng kết, nhân rộng các điển hình chưa được coi trọng; chưa kiểm điểm, phê bình nơi làm yếu và thiếu quan tâm giúp đỡ nơi có khó khăn.
Một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới
Dân chủ vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa có tính giai cấp, tính lịch sử, đồng thời mang dấu ấn truyền thống, đặc điểm dân tộc và tính chất thời đại. Ở mỗi nước, dân chủ trong xã hội phụ thuộc phần lớn vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ dân trí, quyền hạn và năng lực thực hiện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân; không một quốc gia nào có quyền áp đặt các khái niệm và nội dung dân chủ của mình cho các quốc gia khác. Do đó, đi đôi với phát huy, mở rộng dân chủ, phải gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật; đề cao trách nhiệm của xã hội, cộng đồng dân cư; kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, xuyên tạc các vấn đề dân tộc, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta. Trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, tiếp tục tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, không ngừng nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ ở cơ sở. Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân thấy rõ quyền lợi của mình, tự giác thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và quyền làm chủ của mình; ngay cả trường hợp chính sách, pháp luật đúng mà nhân dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì phải tuyên truyền, giải thích, kịp thời điều chỉnh chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Chú trọng tuyên truyền, nhân rộng các gương điển hình, mô hình tốt về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, làm cho việc thực hành dân chủ ngày càng thấm sâu vào mọi hoạt động phong phú, đa dạng của đời sống xã hội. Các ngành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến nhân dân về xây dựng các chủ trương, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích trực tiếp của nhân dân; tích cực thực hành dân chủ, tạo nền nếp và những chuyển biến mới, tích cực ở cơ sở.
Hai là, tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Từng đồng chí bí thư các cấp ủy cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị phải tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng, công khai, minh bạch trong điều hành của chính quyền, thật sự đề cao vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu, chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, quan tâm chỉ đạo việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở gắn với việc thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, các loại phí, lệ phí và các quy định của pháp luật. Nâng cao chất lượng của dân chủ đại diện, mở rộng phương thức dân chủ trực tiếp; nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đối thoại, tháo gỡ khó khăn từ cơ sở, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Phát huy dân chủ ở cơ sở gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở cơ sở. Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, xem xét, đánh giá kết quả thực hiện; khen thưởng và động viên kịp thời; tạo phong trào sâu rộng, có hiệu quả ở từng loại hình cơ sở.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở các ngành, các cấp; nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các đoàn thể nhân dân trong thực hiện. Thường xuyên đề cao vai trò, trách nhiệm của các thành viên trong ban chỉ đạo, tiếp tục phân công theo dõi và trực tiếp giúp đỡ cơ sở, phát hiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến; thí điểm việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở các loại hình cơ sở chưa thực hiện; kịp thời thay thế, bổ sung, kiện toàn ban chỉ đạo; sửa đổi, bổ sung quy chế, bảo đảm kinh phí hoạt động.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Kiên trì chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, đề cao trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức ở cơ sở. Gắn thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức, đơn vị; giám sát trách nhiệm, ý thức chấp hành và gương mẫu thực hiện của cán bộ, đảng viên, công chức; sơ kết, tổng kết và nhận diện kịp thời các điển hình thực hiện tốt Quy chế. Các cấp ủy làm tốt việc phân công cán bộ có năng lực, trực tiếp tham gia ban chỉ đạo, định kỳ nghe ban chỉ đạo báo cáo để kịp thời đề ra những giải pháp hiệu quả trong công tác chỉ đạo đối với các ngành, các cấp. Tổ chức cho cán bộ, công chức tăng cường đi cơ sở, gặp gỡ, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Năm là, muốn phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước hết, Đảng phải nêu gương về dân chủ và lãnh đạo chặt chẽ quá trình phát huy dân chủ. Từng cấp ủy, trong công tác cán bộ cũng như trong việc xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, cần thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đấu tranh kiên quyết với những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền cũng như hiện tượng dân chủ hình thức, vô tổ chức, vô kỷ luật, gây mất đoàn kết nội bộ. Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, đồng thời vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh./.
NGÔ VĂN SỸ
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Nguồn:https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/821526/nhin-lai-hon-20-nam-thuc-hien-quy-che-dan-chu-o-co-so.aspx
-----------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr. 232
(3) Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị “Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”
(2), (4), (5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.168, 38, 169, 39