Bài viết tập trung khái quát những vấn đề lý luận về quyền dân sự, chính trị, bảo đảm quyền dân sự, chính trị thông qua phân tích các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam; đồng thời, đưa ra một số giải pháp góp phần bảo đảm tốt hơn các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam.

Ảnh minh họa (Nguồn: internet).

Khát quát về bảo đảm các quyền dân sự, chính trị

Các quyền dân sự, chính trị (QDSCT) là một bộ phận cơ bản, thiết yếu, có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổng thể quyền con người. Quyền chính trị là quyền liên quan đến những giá trị mà mỗi người được hưởng, điển hình như: quyền tự do lập hội, quyền hội họp, quyền bầu cử, ứng cử, quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền tự do ngôn luận… Để thực hiện các quyền này, thông thường mỗi cá nhân phải cùng tham gia với những người khác.

Ngày nay, nội hàm khái niệm “quyền chính trị” được mở rộng hơn, bao gồm cả việc tham gia cùng Nhà nước quyết định các vấn đề chính trị trọng đại của đất nước, như ban hành các chính sách có liên quan tới quyền của người dân; quyết định về thể chế chính trị, hình thức chính phủ, sửa đổi Hiến pháp…1. So với việc thực hiện các quyền dân sự (QDS), mức độ thực hiện các quyền chính trị bao giờ cũng kèm theo những giới hạn nhất định, điều này xuất phát từ lý do bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội hay bảo đảm quyền và tự do của người khác.

Trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, các QDS, chính trị được quy định từ Điều 2 – 21; trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966, nhóm quyền này được quy định từ Điều 6 – 27.

Các QDS là những quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho người khác 2, bao gồm các quyền cơ bản sau: (1) Quyền sống; (2) Quyền tự do đi lại và tự do cư trú; (3) Quyền không bị bắt giữ làm nô lệ; (4) Quyền tự do và an ninh cá nhân; (5) Quyền được xét xử công bằng; (6) Quyền không bị tra tấn, sử dụng các hình thức phạt hay đối xử một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; (7) Quyền kết hôn; (8) Quyền ly hôn; (9) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (10) Quyền được xét xử công bằng.

Trên thực tế, việc phân chia các quyền thành nhóm QDS hay chính trị cũng mang tính tương đối. Một số quyền vừa có thể xem là quyền chính trị lại vừa có thể xếp vào nhóm quyền chính trị. Việc bảo đảm các quyền này không đòi hỏi phải tiêu tốn nhiều nguồn lực vật chất3, mà cơ bản là phụ thuộc vào ý chí chính trị4, bất cứ quốc gia nào, giàu hay nghèo, đều có thể tiến hành được. Hiện nay, việc bảo đảm các QDSCT luôn trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại và trở thành những giá trị cơ bản mà mỗi nhà nước hướng tới nhằm thu hút đông đảo công dân tham gia sâu vào đời sống chính trị, góp phần thúc đẩy dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội.

Bảo đảm QDSCT có thể hiểu là việc các chủ thể (nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp, hiệp hội quần chúng, các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân) tạo ra các tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân (hoặc mọi người) thực hiện các QDSCT đã được pháp luật ghi nhận trên thực tế.

Các điều kiện, tiền đề ở đây chính là điều kiện, tiền đề về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, pháp luật… Các điều kiện này không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của mỗi con người mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan cùng với những phương tiện, phương thức quan trọng do nhà nước và xã hội tạo ra. Theo đó, bảo đảm QDSCT bao hàm từ việc tiến hành xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật của nhà nước đến cả việc thực hiện chính sách, pháp luật đó trên thực tế. Việc bảo đảm tốt quyền con người nói chung, các QDSCT nói riêng, sẽ giúp giảm thiểu, ngăn ngừa những mâu thuẫn trong xã hội; đồng thời, củng cố tình đoàn kết, phát huy dân chủ và thúc đẩy sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

Thực trạng bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam luôn nhất quán quan điểm: “bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”5. Việc nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người nói chung, QDSCT nói riêng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, thể hiện bản chất của Nhà nước ta; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Suốt những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi con người vừa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp phát triển đất nước, vừa là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phấn đấu phục vụ cho con người, tất cả vì con người.

Để tránh tiềm ẩn nguy cơ quyền con người nói chung và QDSCT nói riêng có thể bị thu hẹp, hạn chế bởi các văn bản dưới luật như: nghị định, thông tư…, tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Như vậy, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ thuộc về Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, không thuộc về bất kỳ một chủ thể nào khác và chỉ trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng mới được giới hạn.

Cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, để bảo đảm các QDSCT ở nước ta, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành. Đối với quyền tiếp cận thông tin, tự do ngôn luận, báo chí, hiện nay, về cơ bản pháp luật trong nước đã tương thích với pháp luật quốc tế, đầy đủ và đồng bộ, từ Hiến pháp, luật đến nghị định, tiêu biểu như: Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018… Có thể khẳng định rằng, quyền tiếp cận thông tin không chỉ được bảo đảm đầy đủ cho người dân Việt Nam mà cả đối với người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt Nam.

Ngoài ra, việc triển khai thi hành các văn bản quy phạm pháp luật cũng được tiến hành một cách nghiêm túc. Các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin ở nước ta luôn được bảo đảm và trở thành một trong những biện pháp hữu hiệu, tích cực nhằm đẩy lùi nạn quan liêu, tham nhũng, các biểu hiện tiêu cực khác trong xã hội.

Đối với các quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước và xã hội luôn được phát huy. Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân được quy định rõ tại Điều 27, 28, 29 Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra, các quyền trên còn được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: Luật Tiếp công dân năm 2013, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Tố cáo năm 2018 và các văn bản khác có liên quan.

Tất cả đã tạo ra khung pháp lý khá hoàn chỉnh trong việc bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử của công dân, tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Người dân luôn có ý thức cao về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2007 – 2011, 2011 – 2016, 2016 – 2021 là một minh chứng. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, tỷ lệ cử tri đi bầu cử năm 2007 đạt hơn 99,64%, năm 2011 là 99,51%6 và năm 2016 cao hơn 98,77%7.

Điều này cũng phản ánh những cố gắng, nỗ lực của các cơ quan chức năng trong việc tạo mọi điều kiện để công dân có thể thực hiện được quyền của mình.

Đối với quyền tự do đi lại và tự do cư trú của công dân, Nhà nước tạo mọi điều kiện và bảo đảm quyền tự do đi lại và tự do cư trú của công dân. Tại Điều 23 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Đối với quyền sống, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đây là một trong số những quyền con người, quyền cơ bản của công dân luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” (Điều 19) và “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình,…”. (Điều 20). Cùng với đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng dành riêng Chương XIV (từ Điều 123 – 156) quy định hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần chính đáng của con người. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Đây là cơ sở để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013, đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng cho mọi tín đồ.

Đối với quyền lập hội, hội họp, biểu tình: trong lịch sử nước ta, quyền biểu tình đã từng được quy định tại Sắc lệnh số 31/SL ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa; quyền tự do hội họp được quy định trong Luật Quyền tự do hội họp năm 1957; quyền lập hội được quy định chi tiết trong Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Luật Quy định quyền lập hội và Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động quản lý hội và một số văn bản hướng dẫn thi hành khác. Tự do hội họp là một trong những nguyên tắc của chế độ dân chủ.

Hiện nay, ngoài Hiến pháp thì ở nước ta chưa có văn bản nào quy định trực tiếp hay hướng dẫn để thực hiện quyền biểu tình. Trong những vụ biểu tình, các cơ quan chức năng mới chỉ áp dụng thực hiện Nghị định số 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng và Thông tư số 09/2005/BCA ngày 05/9/2005 của Bộ Công an hướng dẫn chi tiết Nghị định số 38/2005/NĐ-CP để giải quyết.

Tuy nhiên, hai văn bản trên không điều chỉnh trực tiếp về biểu tình mà quy định về tập trung đông người nơi công cộng, vì vậy, Nhà nước ta đã và đang triển khai nghiên cứu xây dựng Luật về biểu tình và Luật về hội theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Nhìn chung, về cơ bản, các QDSCT ở nước ta được bảo đảm thực hiện ngày một tốt hơn. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của 7/9 công ước quốc tế chủ chốt về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các QDSCT năm 1966.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc bảo đảm QDSCT của công dân nước ta cũng bộc lộ những hạn chế, vướng mắc nhất định. Hiện nay, Việt Nam chưa tham gia các nghị định thư bổ sung của Công ước quốc tế về các QDSCT, ICCPR 1966. Do đó, công dân Việt Nam chưa thể gửi khiếu nại về QDSCT tới các cơ quan nhân quyền Liên hiệp quốc, đồng thời việc khiếu nại theo cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong khu vực ASEAN cũng không khả thi khi Ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR) chỉ là một “cơ quan tư vấn” chứ không có thẩm quyền nhận các khiếu nại của các cá nhân là nạn nhân của vi phạm nhân quyền trong khu vực8.

Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền dân sự, chính trị

Để bảo đảm tốt hơn các QDSCT ở nước ta trong thời gian tới, theo chúng tôi, cần tập trung vào các giải pháp sau đây:

Một là, không ngừng tạo điều kiện để bảo đảm tốt hơn các quyền công dân về bầu cử, ứng cử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, hội họp… Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ theo các điều ước quốc tế, công ước quốc tế về các QDSCT và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên tham gia ký kết, gia nhập. Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt về các QDSCT, đồng thời kết hợp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niềm tin và ý thức trách nhiệm đối với xã hội cho công dân.

Để bảo đảm thực hiện các quyền này, không chỉ đòi hỏi sự quyết tâm chính trị cao, sự chỉ đạo quyết liệt hơn nữa trong việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn trọng, chặt chẽ, hài hòa với lợi ích quốc gia và phù hợp với bối cảnh chính trị, văn hóa của đất nước.

Hai là, nghiên cứu tham gia các nghị định thư bổ sung của ICCPR năm 1966. Bởi chính việc tham gia này sẽ giúp công dân có thể gửi khiếu nại về QDSCT tới các cơ quan nhân quyền Liên hiệp quốc mỗi khi có xảy ra sự xâm phạm quyền của các chủ thể mà nhiều nhất là chủ thể mang quyền lực nhà nước làm ảnh hưởng đến việc thụ hưởng QDSCT của cá nhân.

Ba là, tăng cường đối thoại. Cần xác định rõ đối thoại là một trong những phương án hữu ích, có hiệu quả cao được lựa chọn, sử dụng để bác bỏ những thông tin, quan điểm sai trái, thậm chí xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo thực tế về dân chủ, nhân quyền nói chung, QDSCT nói riêng mà các thế lực thù địch tạo ra nhằm mục đích chống phá đất nước ta.

Bốn là, nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước, các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể trong việc bảo đảm QDSCT. Bảo đảm QDSCT ở Việt Nam là công việc không chỉ của các tổ chức trong hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội mà còn là nhiệm vụ của các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, của toàn cộng đồng xã hội. Vì vậy, để bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là QDSCT, cần có sự phối hợp, huy động được sự tham gia của mọi lực lượng xã hội.

Chú thích:
1, 2. Bảy mươi năm “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” – Giá trị thời đại và ý nghĩa đối với Việt Nam. http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 28/12/2018.
3, 4. Vũ Công Giao. Hỏi – Đáp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân (tái bản có sửa chữa, bổ sung). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016, tr. 49, 61.
5. Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
6. Họ xây dựng hay chống phá bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp? http://hocvienchinhtribqp.edu.vn, ngày 12/5/2016.
7. Bộ Ngoại giao. Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. H, 2017, tr. 28.
8. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tự do lập hội ở nước ta hiện nay. http://ttbd.gov.vn, ngày 29/10/2018.
ThS. Nguyễn Thị Thanh Nga
Học viện Chính trị công an nhân dân

Nguồn:https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/02/04/ve-bao-dam-cac-quyen-dan-su-chinh-tri-o-viet-nam-hien-nay/