3. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân trong quản lý trại giam
3.1 Chuẩn mực và thực tiễn quốc tế
Theo luật quốc tế về quyền con người, các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi quốc gia có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ các quyền của phạm nhân và trách nhiệm này không thể chuyển giao cho bất kỳ cơ quan nào khác, vì chính phủ quốc gia phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm đến các quyền con người của phạm nhân trong các trại giam do nhà nước quản lý hoặc tư nhân quản lý1 và thông qua việc quản lí có hiệu quả phải bảo đảm rằng những nhà thầu tư nhân cũng phải có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ các quyền con người của phạm nhân trong các trại do họ quản lý2.
a) Yêu cầu và tiêu chuẩn Ban quản lý/giám thị và các nhân viên trại giam
Các tiêu chuẩn quốc tế nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của Ban quản lý/giám thị và các nhân viên trại giam về:
- Nền tảng đạo đức trong quản lý trại giam, theo đó thừa thuận nguyên tắc về sự đối xử và cải tạo phạm nhân phải mang tính nhân đạo làm mục đích cơ bản, xuyên suốt của hệ thống trại giam3;
- Thừa nhận công việc quản lý trại giam như dịch vụ cộng đồng có giá trị và cung cấp dịch vụ an ninh dân sự, bảo đảm về nhiệm kỳ và tiền lương đầy đủ cho nhân viên trại giam4;
- Sự tuyển chọn cẩn thận nhân viên trại giam và thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức (bao gồm đào tạo về các quyền con người của phạm nhân)5;
- Thuê tuyển dụng một số lượng thích hợp các chuyên gia, như các bác sĩ tâm thần, bác sĩ tâm lí, những người làm công tác xã hội, giáo viên và những người hướng dẫn đào tạo nghề và thể thao làm việc chuyên trách hoặc bán chuyên trách như các nhân viên làm việc chuyên trách tại các trại giam6;
Ngoài việc tuyển dụng và đào tạo đầy đủ chuyên môn nghiệp vụ và tiêu chuẩn đạo đức của nhân viên tại các trại giam, mối quan hệ tích cực giữa nhân viên và phạm nhân trong trại giam cuối cùng cũng sẽ phụ thuộc vào việc trại giam có được bố trí đầy đủ nguồn nhân lực hay không. Việc thiếu thốn về nhân lực có thể không chỉ dẫn đến thiếu hụt sự chăm sóc, bảo vệ cho từng phạm nhân mà còn gây trở ngại trong việc thực thi đúng đắn quyền hạn và nhiệm vụ giám sát, cải tạo phạm nhân tại trại giam. Ví dụ, việc thiếu nhân viên có thể dẫn đến tình trạng các cơ quan có thẩm quyền trong trại giam tin tưởng vào những trật tự thứ bậc giữa các phạm nhân trong thực hiện các chức năng quản lý hoặc duy trì kỉ luật, đây là điều bị cấm theo các tiêu chuẩn quốc tế7. Thực tiễn cho thấy, ở một số nước có tình trạng các phạm nhân nam được “thuê” để bảo vệ những phạm nhân khác (để đổi lại sự đối xử đặc biệt)8 hoặc thậm chí là đánh đập những bạn tù như một hình thức trừng phạt hoặc vì mục đích hăm dọa9.
Vì thế, tiêu chuẩn quốc tế đặt ra trách nhiệm của các cơ quan quản lí trại giam là phải ngăn chặn bạo lực giữa các phạm nhân với nhau và bảo vệ tất cả phạm nhân khỏi những hành động đối xử phân biệt và sự lạm dụng thể chất bởi các phạm nhân khác; việc không thực hiện trách nhiệm như vậy có thể bị quy thành sự đối xử vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm.
b) Yêu cầu kiểm tra căn cước, quản lý, lưu trữ hồ sơ phạm nhân
Kiểm tra căn cước, lưu trữ hồ sơ phạm nhân là một trong những biện pháp phòng, chống ngược đãi trong trại giam. Các biện pháp này cần phải được thực hiện ngay khi nhập trại, đồng thời phạm nhân phải được thông báo về các quyền và nghĩa vụ của họ trong trại giam và phải được cung cấp các thông tin bằng văn bản về nội quy trong trại giam và cơ chế khiếu kiện, khiếu nại hiện hành. Nếu một phạm nhân không biết chữ, những thông tin này phải được truyền đạt bằng miệng tới người đó10. Mọi trường hợp khiếu nại, tố cáo bị lãnh đạo trại khước từ, thì quyền kháng cáo đến một cơ quan có thẩm quyền độc lập nằm ngoài hệ thống trại giam phải được bảo đảm; phạm nhân còn có quyền hỏi ý kiến và liên lạc với luật sư và nhận trợ giúp pháp lý khi cần thiết.11
Bên cạnh đó, các bảo đảm cần thiết khác chống ngược đãi và ảnh hưởng có hại đến sức khỏe do giam giữ là trong trại giam phải có sẵn dịch vụ y tế độc lập và chủ động, thực hiện kiểm tra sức khỏe thường xuyên cho phạm nhân và, trong bất kì trường hợp nào, thực hiện ngay sau khi tiếp nhận một phạm nhân mới12. Phạm nhân nên có quyền được một chuyên gia pháp y kiểm tra nếu họ có yêu cầu như vậy.
Trên thực tế, bảo vệ các quyền của phạm nhân phụ thuộc rất nhiều vào công việc lưu giữ hồ sơ tổng hợp có chứa thông tin về mỗi phạm nhân và cách đối xử với phạm nhân13. Hồ sơ phạm nhân nên được xem ngay khi tiếp nhận và nên được cập nhật thông tin chính xác về tuổi tác, giới tính, tình trạng sức khỏe, bao gồm cả các báo cáo kiểm tra y tế và thông tin về điều trị và cấp thuốc được kê đơn và được nhận, yêu cầu về chế độ ăn uống, sự kiểm kê tài sản cá nhân, thông tin chi tiết liên lạc với bên ngoài và thông tin về các khiếu nại hay yêu cầu và bất kì hành động liên quan nào được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện cũng như chương trình cải tạo tương ứng của phạm nhân14. Sự quản lý hiệu quả hồ sơ phạm nhân không chỉ nâng cao sự hiểu biết về quyền của phạm nhân cho nhân viên trại giam mà còn hỗ trợ sự cá nhân hóa về đối xử tùy thuộc vào yêu cầu và nhu cầu cụ thể của người bị giam.
c) Yêu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khỏe phạm nhân trong trại giam
Để bảo đảm rằng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phạm nhân trong trại giam cung cấp một tiêu chuẩn về sự chăm sóc tương đương đối với tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng và để thúc đẩy tính độc lập của nhân viên y tế, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong trại giam nên được tổ chức trong mối quan hệ gần gũi với các dịch vụ sức khỏe, nói chung, tốt nhất nên được đặt dưới cùng cơ quan quản lý (như Bộ Y tế)15. Trong bất cứ trường hợp nào thì phải sẵn có sự điều trị chuyên khoa cho phạm nhân nếu cần thiết, bao gồm quyền tiếp cận các dịch vụ chuyên môn trong các bệnh viện dân sự mà không có sự phân biệt đối xử dựa trên địa vị pháp lý của họ16. Khi cân nhắc đến tỷ lệ triệu chứng tâm thần cao do hậu quả của việc giam giữ, các tiêu chuẩn quốc tế cũng quy định rằng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong trại giam phải luôn có một bác sĩ tâm thần17.
Ngoài việc chẩn đoán và điều trị y tế chuyên nghiệp,18 nhân viên y tế đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền của phạm nhân và ngăn chặn sự ngược đãi. Trách nhiệm của họ bao gồm việc xác định xem phạm nhân có thích hợp để lao động và tham gia vào luyện tập thể chất hay không; xác định, chia tách và điều trị cho phạm nhân bị các bệnh truyền nhiễm; và giám sát chung các điều kiện trại giam nhằm bảo đảm cung cấp đồ ăn và chỗ ở thích hợp, phù hợp các tiêu chuẩn vệ sinh và ảnh hưởng chung của chế độ trại giam lên sức khỏe của phạm nhân19. Yêu cầu tiêu chuẩn, trách nhiệm của các nhân viên y tế, phải thực hiện theo các Nguyên tắc về đạo đức y học liên quan đến vai trò của nhân viên y tế, đặc biệt là các thầy thuốc trong việc bảo vệ phạm nhân và những người bị giam giữ chống lại sự tra tấn và đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm20.
d) Yêu cầu bảo đảm các cuộc thanh tra, kiểm tra, giám sát cộng đồng
Các chuyến thăm viếng thường xuyên của các cơ quan giám sát độc lập đến các cơ sở giam giữ là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn tra tấn và ngược đãi trong trại giam. Ngoài ra, thông qua việc công khai địa chỉ các trại giam để công chúng giám sát sẽ góp phần vào sự cải thiện chung các điều kiện trại giam và bảo vệ các quyền con người của phạm nhân.
Theo các tiêu chuẩn quốc tế thì mỗi quốc gia nên thành lập một hệ thống thanh tra thường xuyên đến các trại giam bởi những thanh tra có trình độ và kinh nghiệm độc lập với cơ quan trực tiếp phụ trách quản lý các trại giam21. Những cơ quan như vậy có thể bao gồm từ các cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman); Ủy ban quốc gia về quyền con người cho đến các công tố viên hay thẩm phán quốc gia, nhà báo... Với việc Nghị định thư bổ sung Công uớc về Chống tra tấn (OPCAT) có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ duy trì hoặc thiết lập các Trung tâm dịch vụ quản lý tội phạm quốc gia độc lập về chống tra tấn22.
Nghị định thư pháp điển hóa những nguyên tắc, đặc quyền cơ bản và phương pháp làm việc thiết yếu để thực hiện một cuộc thanh tra độc lập có hiệu quả đối với các trại giam. Những nguyên tắc này bao gồm quyền được tiếp cận thông tin về tất cả những người bị giam và tất cả địa điểm giam giữ, quyền được tiếp cận thường xuyên các địa điểm giam giữ và quyền được tiếp xúc riêng với người bị giam giữ23. Các Trung tâm dịch vụ quản lý tội phạm quốc gia (NPMs) cũng phải được quyền có những đề xuất nhằm mục đích cải thiện các điều kiện trại giam và ngăn chặn tra tấn và ngược đãi dựa trên những quy định pháp lý có liên quan của Liên hợp quốc.24 Như một biện pháp thiết yếu để bảo đảm tính độc lập trong công việc và bảo vệ người bị hại, các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng những người đã hợp tác với cơ quan giám sát không phải chịu bất cứ hình thức trả thù nào25.
Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ quốc gia (NGOs) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và giám sát các cơ sở giam giữ và/hoặc theo dõi chặt chẽ sự vận hành của các thủ tục giám sát nhà nước. Họ có những hiểu biết cần thiết về môi trường xã hội và chính trị bản địa, có thể thiết lập một cơ sở rộng khắp trong các mạng lưới xã hội dân sự và do đó nhận ra những chiến lược tốt nhất nhằm công khai các trại giam để công chúng giám sát26.
Ngoài việc thi hành chức năng giám sát bên ngoài, các thành viên của tổ chức xã hội và các nhóm nghề nghiệp khác có thể tham gia công việc trại giam theo nhiều cách khác nhau, như hỗ trợ nhân đạo hoặc giáo dục, trợ giúp tái hòa nhập xã hội hay đơn giản là cung cấp mối liên lạc với thế giới bên ngoài, do đó góp phần vào một môi trường trại giam nhân đạo hơn27. Trong khi các tiêu chuẩn quốc tế nhấn mạnh rằng các quốc gia phải đáp ứng nghĩa vụ bảo vệ các quyền của phạm nhân thông qua việc trả lương thích đáng cho nhân viên trại giam làm việc toàn thời gian, bao gồm cả những chuyên gia cần thiết như những người làm việc xã hội và giáo viên, các tiêu chuẩn đó cũng khuyến khích sự tham gia của những người làm việc tình nguyện28.
Để hình phạt tù đạt được mục đích cải tạo, các cơ quan quản lý, hỗ trợ tư pháp hình sự nên tìm kiếm sự hợp tác và ủng hộ của các dịch vụ và tổ chức xã hội nghề nghiệp, xã hội hoặc tôn giáo trong cộng đồng rộng hơn nhằm bảo đảm sự tái hòa nhập từng bước của phạm nhân vào một cuộc sống bình thường trong xã hội29. Cuối cùng, sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội có những kết quả hữu ích về mọi mặt và có thể chuẩn bị và thúc đẩy một môi trường thuận lợi cho cải cách hệ thống hình sự.
3.2. Pháp luật Việt Nam
Bảo vệ, bảo đảm quyền con người là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông, báo chí và người dân nói chung. Tuy nhiên, trong lĩnh vực giam giữ, pháp luật quy định cụ thể trách nhiệm trước tiên thuộc về các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền sau đây:
a) Nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan, cá nhân trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân
Cơ quan quản lý thi hành án hình sự (thuộc Bộ Công an, Bộ quốc phòng30) và cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm các trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại giam31) và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự bao gồm: Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu (sau đây gọi là trại tạm giam); Ủy ban nhân dân cấp xã; Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương.
Cán bộ làm việc trực tiếp trong trại giam, trại tạm giam thực hiện theo nhiệm vụ và thẩm quyền luật định bao gồm: Giám thị, Phó Giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan; chiến sĩ và công nhân32.
Như vậy, trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân, trước hết thuộc cơ quan quản lý thi hành án hình sự và các trại giam và trại tạm giam, trong đó, người đứng đầu của các cơ quan quản lý và đứng đầu trại giam, trại tạm giam và cán bộ làm việc trực tiếp trong trại giam, trại tạm giam thực hiện theo nhiệm vụ và thẩm quyền do pháp luật quy định.
- Trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan quản lý33, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về thi hành án hình sự; công tác chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự; tổng kết công tác thi hành án hình sự; kiểm tra công tác thi hành án hình sự; quyết định đưa người chấp hành án phạt tù đến nơi chấp hành án, đưa người dưới 18 tuổi vào trường giáo dưỡng; trực tiếp quản lý trại giam, trường giáo dưỡng thuộc Bộ Công an; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án hình sự…
- Trách nhiệm, thẩm quyền của trại giam, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn như34: Tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; thông báo cho thân nhân của phạm nhân về việc tiếp nhận phạm nhân và tình hình chấp hành án của người đó; đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với phạm nhân theo quy định của pháp luật; thực hiện lệnh trích xuất của cơ quan, người có thẩm quyền; nhận tài sản, tiền mà phạm nhân, thân nhân của phạm nhân tự nguyện nộp tại trại giam để thi hành án, chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án có trụ sở hoặc cơ quan thi hành án dân sự được ủy thác thi hành án; nhận tài sản, tiền do cơ quan thi hành án dân sự chuyển đến để giao cho phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án dân sự; phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc cung cấp thông tin về nơi chấp hành án phạt tù và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của phạm nhân, thông tin nơi về cư trú của người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc xá, người được miễn chấp hành án phạt tù, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; chuyển giao giấy tờ có liên quan đến phạm nhân phải thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, các nghĩa vụ dân sự; cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù, giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện; làm thủ tục giải quyết trường hợp phạm nhân chết; áp giải, bàn giao phạm nhân là người nước ngoài theo quyết định của Tòa án về việc chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân là công dân Việt Nam phạm tội và bị kết án phạt tù ở nước ngoài được chuyển giao về Việt Nam để chấp hành án; thực hiện các quy định của Luật này về thi hành án phạt trục xuất; thực hiện thống kê, báo cáo về thi hành án phạt tù; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm, thẩm quyền của trại tạm giam35: Trực tiếp quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân chấp hành án tại trại tạm giam theo quy định của Luật Thi hành án hình sự; lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện cho phạm nhân; cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù, giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện cho phạm nhân chấp hành án tại trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
Do tính chất đặc biệt quan trọng, trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân tại các trại giam, trại tạm giam, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tiêu chuẩn của Giám thị, Phó Giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan; chiến sĩ và công nhân.
Đối với Giám thị, Phó Giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng phải là người có trình độ đại học cảnh sát, đại học an ninh hoặc cử nhân luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác về phẩm chất chính trị; có ý thức tổ chức, kỷ luật, nắm vững về chính sách, hiểu biết và tôn trọng, chấp hành pháp luật…theo quy định.
Trong trại giam được tổ chức thành phân trại, khu giam giữ, nhà giam; công trình phục vụ việc quản lý giam giữ, học tập, sinh hoạt, chăm sóc y tế; khu lao động, dạy nghề do trại giam quản lý; công trình phục vụ làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân công tác tại trại giam36.
b) Các biện pháp phòng, chống ngược đãi, vi phạm quyền con người của phạm nhân
Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Cụ thể hóa nguyên tắc Hiến pháp, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: Cấm tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục người chấp hành án, biện pháp tư pháp; cấm kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người, pháp nhân thương mại chấp hành án37.
c) Tiếp nhận người thi hành án phạt tù38: phải kiểm tra đầy đủ thông tin để xác định đúng người chấp hành án phạt tù theo quyết định thi hành án của Tòa án; lập biên bản giao nhận người chấp hành án phạt tù; biên bản bàn giao hồ sơ, tài liệu; kiểm tra người chấp hành án phạt tù; kiểm tra và xử lý đồ vật mang theo trước khi đưa vào buồng giam; tổ chức khám sức khỏe cho người chấp hành án phạt tù và trẻ em dưới 36 tháng tuổi theo mẹ vào trại giam (nếu có); giải thích quyền, nghĩa vụ của phạm nhân; phổ biến nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân.
d) Bảo quản hồ sơ, tài liệu lưu trữ bao gồm39: tài liệu về sức khỏe, khám bệnh, chữa bệnh; tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của người chấp hành án phạt tù trong thời gian chấp hành án; tài liệu về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự; biên bản, quyết định kỷ luật về việc vi phạm nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân, pháp luật về thi hành án phạt tù; tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; yêu cầu, đề nghị của người chấp hành án; tài liệu về thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự (nếu có).
đ) Giám sát, kiểm sát, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự
+ Thẩm quyền giám sát
Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật40.
+ Thẩm quyền kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong thi hành án hình sự41. Để bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân, khi kiểm sát thi hành án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù của trại giam đóng tại địa phương; khi thấy có dấu hiệu không có căn cứ và trái pháp luật, ra quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù; đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự; kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật trong thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm; khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật; và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự42.
+ Thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiến nại, tố cáo trong thi hành án hình sự
Thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự trước hết thuộc về cơ quan quản lý thi hành án hình sự. Ở Trung ương, thẩm quyền này thuộc về cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu. Ở địa phương thuộc về cơ quan thi hành hình sự Công an cấp tỉnh và cấp huyện. Bên cạnh đó, Thanh tra Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ.
Ngoài thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo nội bộ trong ngành, Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan thuộc Chính phủ43, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Đối với việc giải quyết khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với hành vi, quyết định quản lý, giáo dục phạm nhân của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân và các khiếu nại khác theo quy định của pháp luật44. Đối với giải quyết tố cáo, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân; và các tố cáo khác theo quy định của pháp luật45.
e) Hợp tác quốc tế trong thi hành án hình sự: Đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 công ước quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc về quyền con người, đặc biệt là thành viên của Công ước quốc tế về chống tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 198546. Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về thị sát quốc tế hay các chuyến viếng thăm của các tổ chức NGOs quốc tế, tuy nhiên, Việt Nam cho phép thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự và cũng đã cho phép một số đoàn nước ngoài vào thăm một số trại giam trong khuôn khổ trao đổi kinh nghiệm, tăng cường năng lực quản lý. Tại Điều 4 của Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước Chống tra tấn yêu cầu quốc gia thành viên cho phép Tiểu ban chống tra tấn vào thăm thực địa bất cứ nơi nào trong lãnh thổ quốc gia có báo cáo về tra tấn, kể cả tại các nơi tạm giữ, tạm giam hay trại giam. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa phê chuẩn Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước nên chưa bị ràng buộc về nội dung này47.
4. Thách thức chung đối với bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân trong quản lý trại giam và đề xuất định hướng bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân ở Việt Nam
4.1. Thách thức chung trong quản lý trại giam
a) Tình trạng quá tải và những điều kiện xuống cấp của trại giam
Quá chật chội là vấn đề chủ yếu trong các trại giam trên toàn thế giới. Sự quá tải trong trại giam sẽ làm trầm trọng thêm những điều kiện về cơ sở vật chất trong các trại giam vốn đã thường xuyên yếu kém và không thể bảo đảm những tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với phạm nhân và do đó đe doạ đến các quyền cơ bản của phạm nhân.
Tình trạng quá chật chội có những ảnh hưởng tiêu cực liên quan đến mọi mặt đời sống trong trại giam bao gồm chỗ ăn ở, chăm sóc sức khỏe, sự thông hơi, không gian sàn nhà, chỗ ngủ, vệ sinh cá nhân và nhiệt độ trong phòng. Điều này dẫn đến tình trạng kém vệ sinh gây ra các bệnh truyền nhiễm. Hơn nữa, những khả năng tham gia các hoạt động hướng nghiệp bị giảm xuống và tình trạng quá chật chội đông đúc có thể làm tăng những căng thẳng giữa nhân viên trại giam và người bị giam và có thể tăng sự phân chia cấp bậc giữa các phạm nhân gây ra tình trạng bạo lực giữa phạm nhân với nhau và tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng và các hoạt động phạm tội48.
Tình trạng quá đông đúc thường dẫn đến việc không thể tách riêng người bị giam là người chưa thành niên, người lớn và những người bị giam trước khi xét xử và những người bị giam đã kết án. Do đó, các cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề cải cách hình phạt ngày càng nhấn mạnh việc đẩy mạnh các hình phạt thay thế hình phạt tù giam49.
b) Tù dài hạn, tù chung thân và tử hình
Trái với các quy chuẩn quốc tế50, những người đã bị kết án tù dài hạn hoặc chung thân cũng như những người đang chờ tử hình thường bị giam giữ trong điều kiện cơ sở vật chất để lại rất nhiều điều đáng phải bàn, ngoài ra còn chịu những hạn chế đặc biệt, làm giới hạn - hoặc thậm chí trong một số trường hợp là ngăn cấm - các hoạt động và khả năng của họ liên lạc với những người bị giam khác và với thế giới bên ngoài. Các hạn chế có thể kể ra bao gồm từ việc bị tách biệt vĩnh viễn với những phạm nhân khác và bị cấm giao tiếp với họ, cho đến việc bị biệt giam;51 việc bị cùm tay, chân gần như vĩnh viễn52 và bị bắt phải chịu quyền thăm viếng bị hạn chế.53 Những biện pháp này gây thêm những ảnh hưởng có hại khác (về tâm lý) vốn gắn liền với sự giam giữ dài hạn hoặc chờ tử hình và đẫn đến sự đau khổ có thể bị coi là đối xử vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm54.
Tù dài hạn có thể có những ảnh hưởng làm giảm hòa nhập xã hội; nguy cơ phạm nhân gặp phải các vấn đề đa dạng về tâm lý là rất cao bao gồm việc mất đi sự tự quý trọng và sự suy yếu các kĩ năng xã hội và có xu hướng dần trở nên tách biệt với xã hội.55 Do đó, không nên áp dụng bừa bãi các biện pháp an ninh, mà phải dựa trên một sự đánh giá nguy cơ riêng lẻ và những chế độ cho những phạm nhân tù dài hạn nên chủ động bồi thường cho những ảnh hưởng này - thay vì bắt phạm nhân phải chịu thêm những hạn chế, nên hỗ trợ tâm lý và cung cấp quyền tiếp cận các hoạt động có ý nghĩa cho phạm nhân nhằm cải tạo về mặt xã hội các phạm nhân56.
Những phạm nhân chờ tử hình chịu thêm sự đau khổ từ nỗi khổ đáng kể về nhân tính do sợ hãi và không chắc chắn về tương lai do án tử hình gây ra trong những hoàn cảnh khi có một khả năng thực sự về bản án.57 Ở một số quốc gia, sự đau khổ này được tạo ra bởi thực tế là những người bị kết án tử hình không được thông báo về ngày giờ bị thi hành án tử hình và luôn phải chịu nỗi sợ bị hành quyết vào bất kì thời điểm nào58 hoặc bởi quy định rằng họ được phép gặp và nói với một người duy nhất trước khi bị hành quyết59.
c) Thiếu kinh phí nâng cấp trại giam và trả lương cho cán bộ, nhân viên trại giam
Ở nhiều quốc gia, việc thường xuyên thiếu kinh phí rõ ràng là lý do chính của điều kiện giam giữ tồi tàn mà trong trường hợp xấu nhất có thể trở thành sự đối xử vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm phạm nhân. Viện dẫn thiếu kinh phí, các cơ quan quản lý trại giam không cung cấp đủ thức ăn, nước uống đạt tiêu chuẩn hợp vệ sinh, cũng như chăm sóc sức khỏe, và do đó các phạm nhân phải dựa vào sự hỗ trợ vật chất từ gia đình của họ để sống sót dường như là điều bình thường đối với các nhà chức trách60. Ngoài ra, tiền lương của các nhân viên trại giam thường rất thấp đã dẫn đến sự hao mòn động lực và thiện chí phục vụ của những người chịu trách nhiệm cho tình trạng khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần của người bị giam, làm phát sinh sự thờ ơ và nhũng nhiễu.
d) Những quan điểm xã hội về hình phạt tù
Quan điểm, quan niệm về hình phạt tù đối với người phạm tội, phản ánh sự khác biệt về nhận thức, về văn hóa của xã hội. Đây cũng là chủ đề gây tranh luận, tranh cãi theo thời gian, không gian ở mỗi nước cũng như các nền văn hóa khác nhau. Phạt tù giam là nhân đạo, hay là sự trừng phạt trả thù của xã hội đối với những người đã có hành vi gây đau khổ, hay tội lỗi cho người khác, và vì vậy cần lấy oán để trả oán? Và nếu coi phạt tù là sự trả thù, thì cách tiếp cận trong quản lý trại giam cũng sẽ nghiêng theo thiên hướng trả thù, lấy ác để trị ác; còn nếu theo quan điểm nhân đạo, lấy mục tiêu giáo dục, cải tạo là chính thì tổ chức, quản lý trại giam cũng sẽ theo thiên hướng nhân đạo.
Bày tỏ diễn tả của mình đối với trại giam, Nelson Mandela – người đã trải qua 27 năm trong chốn lao tù, sau này là Tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu đã khéo léo diễn tả, “không ai thực sự hiểu được về quốc gia cho đến khi người đó đã ở tù. Không nên đánh giá một quốc gia qua cách họ đối xử với những công dân có địa vị cao nhất của mình mà phải thông qua cách họ đối xử với những công dân có địa vị thấp nhất”61. Có thể biết một xã hội có thực sự tôn trọng nguyên tắc về nhân phẩm hay không thông qua cách thức xã hội đó đối xử với những người vi phạm, bị buộc tội vi phạm pháp luật hình sự62. Ở rất nhiều nước, phạm nhân tiếp tục bị đối xử như tầng lớp công dân thứ cấp, bị giam nhốt lại và bị che dấu cẩn thận để không phơi bày ra mặt ngoài của cuộc sống xã hội bình thường.
Theo Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn, lăng kính xung quanh các địa điểm giam giữ cũng dẫn đến sự thiếu hiểu biết kinh niên của công chúng nói chung về cuộc sống thực sự ở các địa điểm giam giữ. Không chỉ người bị giam, bị giam nhốt ở bên trong mà xã hội cũng bị khoá cửa không cho vào”63. Những quan điểm này trực tiếp đi ngược lại với mục đích cải tạo của hình phạt tù được quy định bởi các tiêu chuẩn quốc tế.
Trên thực tế, ngay ở Việt Nam, trước đây không ít người vẫn có suy nghĩ phạm nhân là người bị tước hết các quyền và tự do cơ bản, nói đến phạm nhân/người tù là cộng đồng, xã hội nhìn nhận dưới con mắt miệt thị, thậm chí có sự xa lánh, kỳ thị của cả gia đình và cộng đồng xã hội. Nhưng hiện nay, do quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự tham gia ngày càng nhiều các công ước quốc tế về quyền con người, suy nghĩ về quyền con người của phạm nhân đã có sự thay đổi khá lớn, không chỉ trong đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp mà nhận thức chung của người dân cũng đã có sự thay đổi. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, mục đích chính của công tác thi hành án phạt tù không phải chỉ là trừng trị, mà mục đích cao hơn chính là giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, điều đó cũng thể hiện đúng bản chất nhân đạo của pháp luật nước ta trong công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội. Vì vậy, nhiệm vụ giáo dục cải tạo đã được xác định là nhiệm vụ cơ bản, xuyên suốt trong công tác thi hành án phạt tù.
4.2. Đề xuất định hướng bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân ở Việt Nam
Tước quyền tự do cá nhân bằng hình thức bắt phải chịu một án phạt tù từ lâu đã là phương tiện phổ biến nhất được các nhà nước trên thế giới sử dụng để phòng, chống tội phạm và duy trì an ninh, trật tự xã hội. Tuy vậy, hình phạt tù đối với phạm nhân bao giờ cũng phải chịu những giới hạn bởi sự điều chỉnh bằng các quy phạm quyền con người và những nguyên tắc chuẩn mực tối thiểu về đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của tất cả những người bị tước tự do. Ngoài ra, các tiêu chuẩn quốc tế về đối xử với phạm nhân đang ngày càng phát triển hướng đến mục tiêu cao nhất và cuối cùng là giáo dục, cải tạo, cảm hóa phạm nhân để giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên trên thực tế, ở nhiều nước phạm nhân thường bị giam giữ trong những điều kiện cơ sở vật chất rất kém và không được tôn trọng nhân phẩm và các quyền con người của mình; rút cuộc cơ sở vật chất và các điều kiện giam giữ lại trở thành một hình phạt bổ sung bên cạnh hình phạt tước quyền tự do đã gây thêm đau khổ kép cho phạm nhân.
Từ lý luận, chuẩn mực và thực tiễn quốc tế, cũng như hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam như đã phân tích, so sánh ở các phần trên, có thể rút ra nhận xét: So với chuẩn mực và thực tiễn chung của quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong công tác thi hành án hình sự, không chỉ nỗ lực hoàn thiện về thể chế, mà cả thực tiễn bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân trong quản lý trại giam. Tuy nhiên, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp sau năm 2020, định hướng 2045, bảo vệ, bảo đảm quyền con người của phạm nhân cần tiếp tục nghiên cứu, triển khai trên một số định hướng sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án hình sự, bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chuẩn chung về quyền con người, các nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về đối xử nhân đạo, tôn trọng phẩm giá và các quyền của phạm nhân; đổi mới quản lý phạm nhân trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, đa dạng hóa các hình thức giam giữ, cải tạo phù hợp với từng mức án, loại án64;
Thứ hai, đầu tư nâng cấp các cơ sở giam giữ, cải tạo bảo đảm phù hợp với thực tiễn là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội trong hơn 30 năm đổi mới đất nước. Thực hiện thật tốt các quy định về tiêu chuẩn, chế độ giam giữ, cải tạo phạm nhân theo đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013 và pháp luật thi hành án hình sự. Bảo đảm không để tình trạng quá tải trong các cơ sở giam giữ, cải tạo65; các nguyên tắc, tiêu chuẩn và thực tiễn tốt của quốc tế được thừa nhận và vận dụng tốt trong quản lý, cải tạo phạm nhân tại các trại giam.
Thứ ba, đào tạo đội ngũ cán bộ thi hành án hình sự, hỗ trợ tư pháp, cán bộ quản lý trại giam, đặc biệt có chiến lược đào tạo, phát triển đội ngũ bác sĩ, nhất là bác sĩ tâm lý66, nhân viên công tác xã hội, nhân viên làm việc trong các cơ sở giam giữ, cải tạo cả về chuyên môn nghiệp vụ và về phẩm chất, đạo đức.
Thứ tư, có kế hoạch tuyên truyền giáo dục kiến thức pháp luật về quyền con người cho cả phạm nhân và cán bộ quản lý, nhân viên trong các trại giam. Trước mắt mở các lớp kiến thức pháp luật về quyền con người có cấp chứng chỉ dành riêng cho cán bộ quản lý, đội ngũ bác sĩ, nhân viên trong các cơ sở giam giữ, cải tạo; đồng thời triển khai đưa nội dung quyền con người, quyền con người trong thi hành án hình sự thành môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp - các trường thuộc Bộ Công an quản lý (thực hiện theo Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân - Quyết định 1309/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát nội bộ và kiểm soát từ bên ngoài, trong đó tăng cường giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiểm sát hoạt động giam giữ, cải tạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát của báo chí; thực hiện quyền tiếp cận hiệu quả cơ chế giải quyết khiếu kiện bên trong và bên ngoài hệ thống trại giam cho mọi phạm nhân nhằm phòng, chống ngược đãi và lạm dụng quyền lực.
Thứ sáu, đặc biệt chú trọng công tác phối hợp liên ngành (trong đó lực lượng công an là nòng cốt), thu hút sự tham gia của xã hội, doanh nghiệp đối với công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân, nhất là công tác đào tạo nghề - hỗ trợ phạm nhân chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng từ khi nhập trại. Bảo đảm chất lượng giáo dục kiến thức và đào tạo nghề đạt chuẩn như hệ thống đào tào nghề nghiệp bên ngoài, có thể cấp chứng chỉ nghề cho phạm nhân đạt chuẩn nghề. Đây thực sự phải xem là khâu trọng tâm và đột phá trong công tác nâng cao chất lượng quản lý, cải tạo, giáo dục phạm nhân, sẽ quyết định đến hiệu quả ngăn ngừa tái phạm và hiệu quả công tác hòa nhập cộng đồng…
Thứ bảy, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, để khi đến thời điểm thích hợp Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước Chống tra tấn về thẩm quyền của Tiểu ban chống tra tấn được vào thăm thực địa cơ sở giam giữ trong lãnh thổ quốc gia có báo cáo về tra tấn, kể cả tại các nơi tạm giữ, tạm giam hay trại giam.
PGS.TS Tường Duy Kiên
Viện trưởng Viện Quyền con người
Tài liệu trích dẫn
(1) Ở một số nước quản lý phạm nhân có thể được giao cho công ty dịch vụ cộng đồng/tư nhân.
(2) HRC, Những kết luận về Niu-Di-lân, ICCPR/CO/75/NZL (ngày 26 tháng 7 năm 2002), đoạn 13;.
(3) Nguyên tắc 72 (1) và (2) của Nguyên tắc trại giam Châu Âu.
(4) Nguyên tắc 46 (3) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(5) Nguyên tắc 46 và47 (3) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(6) Nguyên tắc 49 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(7) Nguyên tắc 28 (1) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(8) Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về Tra tấn về chuyến công tác của ông đến In-đô-nê-xi-a, Tư liệu Liên hợp quốc, A/HRC/7/3/Add.7, (ngày10 tháng 3 năm 2008), đoạn 32.
(9) Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về Tra tấn về chuyến công tác của ông đến Togo, Tư liệu Liên hợp quốc, A/HRC/7/3/Add.5, (ngày 6 tháng 2 năm 2008), đoạn 34.
(10) Nguyên tắc 35 (1) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(11) Nguyên tắc 18 của Tập hợp các Nguyên tắc.
(12) Nguyên tắc 24 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(13) Nguyên tắc 7 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(14) “Sổ tay về Quản lý hồ sơ phạm nhân”, Sê-ri về Tư pháp Hình sự, Liên hợp quốc, Niu-Oóc 2008, tr. 22.
(15) Nguyên tắc 22 (1) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(16) Nguyên tắc 22 (1) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(17) Nguyên tắc 22 (1) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu yêu cầu nhân viên y tế phải có kiến thức về tâm thần học.
(18) Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu đòi hỏi các cuộc thăm hỏi hằng ngày dành cho tất cả phạm nhân bị ốm (Nguyên tắc 25 (1)) .
(19) Nguyên tắc 24-26 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu;
(20) Được thông qua theo Nghị quyết 37/194 ngày 18/12/1982 của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
(21) Nguyên tắc 29 (1) của Bộ các Nguyên tắc; cũng xem Nguyên tắc 55 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(22) Điều 17 và 18 của OPCAT.
(23) Điều 20.
(24) Điều 19.
(25) Điều 21.
(26) Xem “Giám sát các địa điểm giam giữ: một hướng dẫn thiết thực cho các Tổ chức phi chính phủ”, Hiệp hội chống tra tấn, Geneva 2002, tr. 26-27.
(27) Xem “Khuyến khích sự tham gia của xã hội dân sự”, Văn bản hướng dẫn số 12, Trung tâm quốc tế nghiên cứu trại giam, London 2004.
(28) Nguyên tắc 49 (2) của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(29) Nguyên tắc 61 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(30) Khoản 1, Điều 11, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(31) Khoản 2, Điều 11, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(32) Điểm b, Khoản 4, Điều 17 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 và điểm b, Khoản 2, Điều 14 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
(33) Điều 12, 13, 14, 15, 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(34) Điều 17, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(35) Điều 18, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(36) Mục a, Khoản 4, Điều 17 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(37) Khoản 8, 9 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(38) Khoản 2, Điều 28 Luật Thi hành án phạt tù năm 2019.
(39) Điều 29, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(40) Điều 6, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(41) Điều 7, Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
(42) Điều 25, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
(43) Điểm a, Khoản 2, Điều 15, Luật Thanh tra năm 2010.
(44) Điểm d, e Khoản 1, Điều 29 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
(45) Điểm d, đ Khoản 2, Điều 29 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
(46) Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 28.11.2014.
(47) Tài liệu tập huấn chuyên sâu Công ước của Liên hợp quốc về Chống Tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, pháp luật Việt Nam về chống tra tấn (Dành cho cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân).
(48) Xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn, chuyến công tác đến In-đô-nê-xi-a. Tư liệu Liên hợp quốc, A/HRC/7/3/Add.7 (ngày 10 tháng 3 năm 2008), Đoạn 27;
(49) Xem Nghị quyết 1998/23 của ECOSOC, hợp tác quốc tế nhằm giảm tình trạng quá đông đúc ở trại giam và thúc đẩy kết án thay thế phạt tù; Báo cáo lâm thời của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn gửi đến Đại hội đồng (ngày 13 tháng 8 năm 2007) A/62/221, đoạn 55-66.
(50) Điều 10(3) ICCPR; Nguyên tắc 37, 60 (1), 65 và 66 của Nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu.
(51) Xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn về chuyến công tác của ông đến Moldova tháng 7 năm 2008 (sắp xuất bản), về chuyến công tác của ông đến Mông Cổ, E/CN.4/2006/6/Add.4, (ngày 20 tháng 12 năm 2005), đoạn 51.
(52) Xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn về chuyến công tác của ông đến Trung Quốc, E/CN.4/2006/6/Add.6, (ngày 10 tháng 3 năm 2006), đoạn 68.
(53) Xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn về chuyến công tác của ông đến Mông Cổ, E/CN.4/2006/6/Add.4, (ngày 20 tháng 12 năm 2005), đoạn 5.
(54) Xem ECtHR, vụ Iorgov kiện Bun-ga-ri, Phán quyết ngày 7 tháng 7 năm 2004, đoạn 86, nơi nguyên cáo đã bị bắt phải chịu một chế độ án phạt nghiêm khắc bao gồm cả biệt giam trong khoảng 3 năm rưỡi.
(55) CPT/Inf (92) 3, đoạn 33
(56) CPT/Inf (2000) 13, đoạn 33.
(57) Xem ECtHR vụ Iorgov kiện Bun-ga-ri, Phán quyết ngày 7 tháng 7 năm 2004, đoạn 72.
(58) Xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn về chuyến công tác của ông đến Nigeria, A/HRC/7/3/Add.4, Phụ lục I, (ngày 22 tháng 11 năm 2007), đoạn 113.
(59) Xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn về chuyến công tác của ông đến Mông Cổ, E/CN.4/2006/6/Add.4, (ngày 20 tháng 12 năm 2005), đoạn 50; Tư liệu Liên hợp quốc, E/CN.4/2006/53/Add.3 (ngày 24 tháng 3 năm 2006), đoạn 32.
(60) Ví dụ xem Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn về chuyến công tác của ông đến Nigeria, A/HRC/7/3/Add.4, Phụ lục I, (ngày 22 tháng 11 năm 2007), đoạn 6;
(61) Nelson Mandela, Chặng đường dài đến tự do, London 1994.
(62) Coyle, Sđd, tr.15.
(63) Tuyên bố của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn, Manfred Nowak, Kì họp lần thứ 63 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, ngày 23 tháng 10 năm 2008, tr.3.
(64) Thí điểm một số loại án, phạm nhân có thể được giam giữ tại nhà (quản lý qua hệ thống định vị);
(65) Nguyên tắc tiêu chuẩn quốc tế là Không được đặt thành nguyên tắc cứ phạm tội phải bị giam giữ. Thực hiện tốt nguyên tắc này, chắc chắn sẽ không bị quá tại tại các nhà tạm giữ, tạm giam
(66) Các nước phát triển ở Châu Âu, nhất là Bắc Âu đặc biệt coi trọng đội ngũ bác sĩ tâm lý trong các trại giam. Đây là đội ngũ có vai trò hóa giải lý do phạm nhân phạm tội, hỗ trợ tâm lý cho giáo dục cải tạo