Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam hiện nay

ThS Lê Hữu Đạt[1]

Quyền tự do ngôn luận là một quyền tự do cơ bản, nó là quyền của công dân trong xã hội dân chủ, pháp quyền, là chuẩn mực xác nhận một xã hội trong đó người dân có tự do, có quyền lực thực sự. Quyền này có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu các quyền con người cũng như quyền công dân. Trong đó, báo chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm, là công cụ của tự do biểu đạt của công dân.

Ở Việt Nam, nhất là từ sau khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới, những điều kiện pháp lý bảo đảm cho tự do báo chí đã từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013, Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”; đồng thời cũng nêu: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016 cũng quy định tại Chương II về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.

Rõ ràng, ở Việt Nam, mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ pháp luật như ở các quốc gia khác. Tuy nhiên, những năm gần đây, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh và mạnh mẽ, các quan điểm, xu hướng mới du nhập vào nước ta là tất yếu, không thể tránh khỏi những đòi hỏi lớn hơn từ công chúng về quyền được biểu đạt ý kiến cá nhân của mình về những vấn đề, lĩnh vực trong đời sống văn hóa, xã hội, chính trị đang diễn ra từng ngày từng giờ.

1. Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân

Quyền tự do ngôn luận được công nhận là một quyền của con người. Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (có hiệu lực từ ngày 23/03/1976) quy định: Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.

Tự do ngôn luận nói chung và quyền tự do ngôn luận trên báo chí nói riêng là một trong những quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận. Tự do ngôn luận trên báo chí của công dân chính là sự bảo đảm đầy đủ quyền trao đổi, truyền bá thông tin, quyền bày tỏ nguyện vọng, ý chí một cách dân chủ của mọi thành viên trong xã hội. Xét ở góc độ quyền tự do cá nhân của con người trên phương diện báo chí, với nhu cầu viết báo, sáng tạo tác phẩm báo chí ngày càng cao và được coi trọng, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân là mục đích được hướng tới để mọi công dân đều có cơ hội được tự do tiếp cận, sử dụng các loại hình phương tiện truyền thông đại chúng mà không bị ngăn chặn và quyền này được pháp luật và dư luận xã hội bảo đảm.

Vì là khát vọng và mong muốn của cá nhân con người, do vậy, ở cách nhìn khác, có ý kiến cho rằng: Tự do ngôn luận trên báo chí của công dân là quan niệm về trạng thái của báo chí trong mối quan hệ với các yếu tố quy định và chi phối báo chí. Theo nghĩa thông thường, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được hiểu là mỗi người đều có quyền thoát ly khỏi mọi sự ràng buộc, mọi sự hạn chế, mọi sự cấm đoán trong hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí.

Có thể thấy, quyền tự do ngôn luận trên báo chí chỉ có được khi trên nền tảng một xã hội dân chủ; mọi hoạt động báo chí phải phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân. Không thể có tự do ngôn luận trên báo chí trong một xã hội độc tài, chuyên quyền, độc đoán. Nói theo cách khác, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân chỉ được tồn tại và nuôi dưỡng trong một môi trường dân chủ. Với một xã hội phi dân chủ thì không bao giờ có tự do ngôn luận vì lợi ích chính đáng của nhân dân.

Quyền tự do ngôn luận trên báo chí có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, xét về bản chất, quyền tự do ngôn luận trên báo chí là một quyền con người nên vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù.

Thứ hai, quyền tự do ngôn luận trên báo chí, cũng giống như quyền tự do báo chí, mang tính giai cấp sâu sắc.

Thứ ba, Quyền tự do ngôn luận trên báo chí mang tính lịch sử và không phải là quyền tuyệt đối mà có giới hạn.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, bên cạnh việc đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, báo chí đang thực sự có những bước chuyển biến tích cực, đi vào chiều sâu cả về chất và lượng. Trong những năm qua, ở mọi mặt của đời sống xã hội, thông tin trên báo chí ở nước ta đã có những đóng góp quan trọng, góp phần trong công cuộc phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Báo chí đã thực sự trở thành kênh thông tin quan trọng, là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Mặt khác, thông qua quyền tự do ngôn luận, báo chí trở thành công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích chung của xã hội và các quyền tự do dân chủ của nhân dân; kiểm tra, giám sát việc thực thi luật pháp, chính sách của Nhà nước, đặc biệt về quyền con người. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, việc đề đạt nguyện vọng, bày tỏ chính kiến, đóng góp ý kiến về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa là quyền cơ bản của mỗi công dân.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận trên báo chí cũng có những giới hạn nhất định trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo đảm không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân, tổ chức, nhà nước nào, điều này đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật quốc tế như:

- Tự do ngôn luận trên báo chí nhưng phải tôn trọng các quyền và danh dự của người khác

- Tự do ngôn luận trên báo chí nhưng phải bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức công chúng.

Ở Việt Nam, Luật Báo chí năm 2016 cũng đã quy định rõ các hành vi nghiêm cấm tại Điều 9, quy định này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc giới hạn quyền con người nhằm ngăn chặn sự tùy tiện của nhà nước, thể hiện bước tiến lớn trong tư duy lập hiến.

2. Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Báo chí 2016 (có hiệu lực từ 01/01/2017). Trong đó, Luật Báo chí 2016 có 6 Chương, 61 Điều, trong đó có 32 điều được xây dựng mới, 29 điều được sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí 1989 sửa đổi, bổ sung năm 1999. So với Luật Báo chí thời kỳ trước, Luật Báo chí năm 2016 có nhiều điểm mới, một bước tiến quan trọng để luật hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí tại Chương 2 - Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân gồm các Điều 10-13, xác lập nội dung luật pháp tương ứng vừa tạo điều kiện, vừa bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được thực hiện, đồng thời, được tổ chức, quản lý một cách dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với yêu cầu của tiến trình xây dựng, phát triển đất nước.[2]

Luật Báo chí 2016 đã tạo ra khung pháp lý rộng nhưng nghiêm khắc, bảo đảm công dân được thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí, giúp các cơ quan báo chí và nhà báo, phóng viên có thể tự do tác nghiệp trong khuôn khổ luật định với Điều 9 - Các hành vi bị nghiêm cấm, đây được xem là phạm vi giới hạn của quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, và Điều 25 - Quyền và nghĩa vụ của nhà báo, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho các nhà báo hoạt động đúng pháp luật, nâng cao vị thế và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân của người làm báo. Điều này khẳng định pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn hiện, phù hợp với yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời phù hợp với trình độ phát triển của thế giới hiện đại. Đây cũng là cơ sở tạo điều kiện bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện ý vẫn hay sử dụng để bịa đặt, vu cáo Việt Nam về vấn đề bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận.

a. Những kết quả đạt được trong thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam và nguyên nhân

Về hình thức

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quyền tự do ngôn luận trên báo chí cơ bản có đủ các hình thức văn bản đã được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: Hiến pháp, Luật báo chí, Pháp lệnh, Lệnh của Chủ tịch nước; các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ văn hóa - Thông tin; Thông tư liên tịch... Đặc biệt, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quản lý nhà nước bằng pháp luật là sự ra đời của Luật Báo chí ngày 28/12/1989. Đây được xem là lần đầu tiên các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành dưới hình thức đạo luật với giá trị pháp lý cao, đặt nền tảng quan trọng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực báo chí.

Về nội dung

Trong những năm qua, kể từ khi Luật Báo chí năm 1989 được ban hành, sau đó là Luật sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí năm 1999 và Luật Báo chí năm 2016, cho đến nay, các quy định của luật Báo chí đã được đi vào cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các quyền tự do dân chủ của môi công dân nói chung và quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân nói riêng. Điều 11 - Quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân Điều 9 - Các hành vi bị nghiêm cấm đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước đối với một trong những lĩnh vực hết sức phức tạp.

Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân

- Công tác quản lý nhà nước về báo chí: Trong những năm gần đây, đã có những thành tựu đáng ghi nhận công tác quản lý nhà nước về báo chí, trước hết có thể thấy, công tác định hướng thông tin cho báo chí từ cấp trung ương đến địa phương được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, các tình huống đột xuất, cấp bách được xử lý kịp thời; Bộ Thông tin và Truyền thông tập trung triển khai thực hiện công tác nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới các văn bản pháp luật đã đem lại hiệu quả cao, phù hợp với những yêu cầu đặt ra trong thời đại mới trong công tác quản lý nhà nước về báo chí...

- Về nội dung thông tin trên báo chí: Trong Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2017 ngày 21/12/2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ đã chỉ đạo tập trung thông tin, tuyên truyền về các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, nhất là Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết số 142/2016/QH13 ngày 12/4/2016 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2016, Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các hoạt động đối nội, đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước...

- Xử lý vi phạm: Trong những năm qua, bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, các đơn vị chức năng của Ban, Bộ, Hội đã phát hiện nhiều sai phạm trong thông tin báo chí. Trung bình mỗi năm gần đây, Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp nhân và xử lý khoảng 300 đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực báo chí.

Một số cơ quan báo chí sai phạm liên quan nội dung thông tin, bị xử phạt vi phạm hành chính (Đã xử phạt 04 cơ quan báo chí với số tiền là 85.700.000đ, đình bản Báo điện tử Phụ nữ TP. Hồ Chí Minh 01 tháng).[3] Bên cạnh đó, công tác xử lý phản ánh/kiến nghị cũng phần nào được giải quyết với tổng số kiến nghị: 129 kiến nghị; đã giải quyết xong 120 kiến nghị; chưa giải quyết xong 9 (Lý do: Mới nhận được đơn thư, đang chuẩn bị xử lý; đây là các nội dung đơn thư phản ánh/ kiến nghị thông thường, không có nội dung phức tạp); trong đó: * Người dân: 55 kiến nghị * Doanh nghiệp: 41 kiến nghị * Khác: 33 kiến nghị.[4]

Trong năm 2017, 2018 và 10 tháng đầu năm 2019, những sai phạm trong hoạt động báo chí tiếp tục được Bộ Thông tin và Truyền thông xử lý quyết liệt, kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm để các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, đúng quy định của pháp luật về báo chí.[5]

b. Hạn chế trong thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam và nguyên nhân

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên báo chí còn nhiều hạn chế, bất cập như: vẫn còn tình trạng thụ động trong xây dựng hệ thống văn bản; các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, còn chồng chéo, nội dung chưa hợp lý, chủ yếu là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước, chưa chú trọng đúng mức đến việc tạo thuận lợi cho sự tham gia của công dân trên báo chí

Luật Báo chí năm 2016 có hiệu lực đã đáp ứng được hầu hết các hạn chế mà Luật Báo chí năm 1999 còn tồn tại, tuy nhiên vấn đề quản lý truyền thông trên các trang mạng xã hội còn bỏ ngỏ khi mà thông tin xã hội trên mạng Internet hiện nay là phổ biến, có sức lan tỏa lớn, mọi người đọc và theo dõi hết sức dễ dàng, lượng người đọc đôi khi còn lớn hơn báo chí truyền thống, nhưng việc kiểm soát thông tin trên mạng trong luật hiện nay vắng bóng, không đáp ứng được thực tiễn hiện tại.

Bên cạnh đó cũng còn tồn tại những hạn chế về mặt tổ chức thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam. Trước hết là công tác quản lý nhà nước về báo chí. Công tác chỉ đạo, quản lý thông tin về báo chí đôi lúc còn chưa chủ động, chạy theo sự vụ; đơn vị, cán bộ chuyên trách về quản lý báo chí ở một số cơ quan chủ quản báo chí vẫn còn thiếu và yếu không nắm bắt hết được tình hình hoạt động của cơ quan báo chí do mình theo dõi, quản lý... Còn tồn tại sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành (đặc biệt trên không gian mạng internet) và chưa phân định rõ, làm hạn chế công tác quản lý, xử lý vi phạm.[6]

Về nội dung thông tin trên báo chí, trong những năm gần đây, hoạt động báo chí nước ta bộc lộ những vấn đề đáng lo ngại, có chiều hướng không giảm những vấn đề như không thực hiện đúng tôn chỉ mục đích, thông tin sai sự thật, chậm khắc phục xu hướng “thương mại hóa”, thông tin về những hành động dâm ô, tội ác được miêu tả tỉ mỉ, thông tin những chuyện thần bí, mê tín dị đoan...[7]

Bên cạnh đó, thông tin thiên về khai thác mặt trái xã hội; Thông tin phản cảm, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam, thiếu nhân văn và phản giáo dục, giật tít mang tính "giật gân", "câu khách"... vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Một số cơ quan báo chí không thực hiện việc cải chính hoặc cải chính không đúng quy định của pháp luật về báo chí, có trường hợp coi thường việc giải quyết khiếu nại thông tin của các cá nhân, tổ chức dấn đến bị khởi kiện tại tòa án. Đồng thời, còn tồn tại một số bộ phận phóng viên lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, lấy danh nghĩa nhà báo vụ lợi cá nhân, vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật, gây bất bình trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến uy tín của giới báo chí.

3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí

* Nguyên nhân khách quan

Một là, với nhiều sự kiện diễn ra trong thời gian vừa qua có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, nguồn thông tin bị nhiễu loạn với nhiều luồng ý kiến khác.

Hai là, các thế lực thù địch thường lợi dụng các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin... để phục vụ mục đích chính trị của mình, nhằm phá hoại an ninh chính trị ở nước ta và vấn đề này diễn biến ngày càng phức tạp.

Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền con người, quyền công dân chưa tạo được sự đồng thuận, nhận thức sâu sắc về văn hóa dân chủ và quyền con người trong điều kiện hiện nay.

Bốn là, hạn chế về nguồn vật chất bảo đảm: với các xu thế thời đại ngày càng gia tăng như hiện nay (dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế), quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của công dân đòi hỏi phải được bảo đảm, tôn trọng và tăng cường hơn nữa.

Năm là, công tác chỉ đạo quản lý còn chưa phù hợp, chưa sát với tình hình thực tế nhu cầu thông tin, có những thời điểm không theo kịp với tốc độ phát triển của thông tin báo chí.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu thống nhất đồng bộ với một số luật liên quan (Luật An ninh mạng, Luật Xuất bản...); chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ để từ đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, khắc phục tình trạng chồng chéo, lấn sân hoặc buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo; còn tình trạng cơ quan chủ quản thiếu trách nhiệm, không đủ năng lực quản lý....

Thứ hai, ở một số bộ, ngành, đại phương, cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí, công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho những người làm công tác chỉ đạo, quản lý và hoạt động trong lĩnh vực báo chí chưa được coi trọng...

Thứ ba, do còn đặt nặng tính bao cấp, một số các cơ quan quản lý còn thụ động, chưa thực sự năng động nhanh nhạy, việc không đáp ứng được yêu cầu quản lý trong cơ chế mới là khó tránh khỏi. Mặt khác, vẫn còn tồn tại tình trạng lúng túng, buông lỏng trong công tác quản lý quản lý các cơ quan địa phương do những tác động của cơ chế thị trường.

Thứ tư, mặc dù nhiệm vụ của các cơ quan chủ quản là quản lý trực tiếp đối với các cơ quan báo chí trực thuộc nhưng tình trạng buông lỏng quản lý diễn ra khá phổ biến.

Thứ năm, công tác tuyên truyền khá phổ biến, giáo dục pháp luật quyền con người chưa đạt hiệu quả.

Thứ sáu, một bộ phận cán bộ và nhân dân vẫn còn thái độ dè dặt khi thể chế hóa các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân.

Thứ bảy, một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc và thống nhất về giá trị của các quyền của bản thân mình trong cuộc sống.

4. Phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam

Về phương hướng bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam.

Trước hết, việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí phải góp phần thực hiện nguyên tắc hiến định: "Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện theo Hiếp pháp và pháp luật". Nếu pháp luật tối cao của một nhà nước chỉ là chia chác quyền lực, phục vụ cho một giai cấp, đồng thời nhà nước đó có khuynh hướng sử dụng quyền lực đàn áp quyền lợi chính đáng của nhân dân thì đó chỉ là một nhà nước độc tài, chuyên chế, không phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Thứ hai, bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí phải góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Quyền làm chủ của nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chỉ có thể thực hiện khi mà quyền tự do báo chí nói chung và quyền tự do ngôn luận trên báo chí nói riêng được bảo đảm. Báo chí không chỉ là tiếng nói phản ánh kịp thời đời sống xã hội, đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống mà còn là địa chỉ tin cậy của nhân dân để "gửi gắm" tâm tư nguyện vọng, là "vũ khí" của nhân dân để giám sát đối với Đảng và Nhà nước. Từ đó, tìm ra tiếng nói chung của "ý Đảng lòng dân", tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng tâm hợp lực, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng đề ra.

Thứ ba, bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí phải tiến hành đồng bộ với việc hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về báo chí. Cụ thể cần thực hiện những nhiệm vụ sau:

Một là, xây dựng pháp luật về báo chí cần phải khuyến khích sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội, đặc biệt là các cơ quan báo chí.

Hai là, hệ thống pháp luật về báo chí cần được xây dựng một cách hoàn chỉnh, hợp lý.

Ba là, cần tiến hành công tác rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật về báo chí một cách thường xuyên đối với các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy theo hướng dễ hiểu, dễ áp dụng, triệt tiêu dần tình trạng muốn thi hành được phải có văn bản hướng dẫn chi tiết.

Bốn là, hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật về báo chí đồng thời hoàn thiện cơ chế, giải pháp thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.

Về giải pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên báo chí

Một là, thường xuyên rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật về báo chí nói chung và quyền từ do ngôn luận trên báo chí nói riêng.

Hai là, nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Ba là, hoàn thiện khung pháp luật về báo chí và truyền thông, bảo đảm nguyên tắc báo chí phải hoạt động theo đúng pháp luật; bổ sung những vấn đề thực tiễn đặt ra nhưng chưa được quy định trong Luật Báo chí hiện hành và sửa đổi, cụ thể hóa các quy định còn chung chung, khái lược.

Thứ hai, đẩy mạnh cải cách cơ chế quản lý báo chí.

Để cải thiện phương hướng, cách thức làm việc, cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước về báo chí cần bổ sung các quy định cơ chế quản lý báo chí. Cụ thể:

Một là, trong quá trình vận hành bộ máy quản lý nhà nước về báo chí, cần phải xác định rõ ràng cơ chế phối hợp, quy tắc hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan chủ quản, giữa cơ quan chủ quản với người đứng đầu cơ quan báo chí; đồng thời, giữa các cơ quan, cá nhân này cũng cần chỉ rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân.

Hai là, giữa Bộ Thông tin và Truyền thông với ban, ngành hữu quan liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí cần hình thành sớm một quy chế làm việc rõ ràng, cụ thể; bên cạnh đó, cơ chế này cũng cần được áp dụng và phù với mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương với địa phương, cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan chủ quản báo chí.

Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

Cần phải hiểu công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện những hành vi vi phạm, những bất cập trong thực tế khi áp dụng các văn bản quản lý nhà nước về quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Qua đó, kịp thời xử lý nghiêm khắc các sai phạm, bổ sung, sửa đổi những bất cập còn tồn tại trong các văn bản quy phạm pháp luật, góp phần phát huy hết vai trò của công tác quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Nếu công tác thanh tra, kiểm tra bảo đảm được tính nghiêm minh, thẳng thắn; kết luận thanh tra, kiểm tra cụ thể, chính xác, tính pháp lý được bảo đảm sẽ góp phần tạo những tác động, hiệu ứng tích cực đến nhiều mặt như xây dựng kỷ luật trong hoạt động báo chí, giúp các đối tượng sai phạm nhận thức được hành vi của mình, từ đó chấp hành nghiêm kỷ luật, rút kinh nghiệm cho bản thân; chủ động trong việc khắc phục, sửa chữa tác phong làm việc trong quá trình làm báo, viết báo.

Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên báo chí

Một là, bảo đảm nội dung quyền tự do ngôn luận của công dân trên báo chí được tích hợp vào các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt từ trung ương đến địa phương.

Hai là, sử dụng nhiều hình thức khác nhau nhằm đa dạng hóa phương thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về quyền tự do ngôn luận trên báo chí.

Ba là, đội ngũ nhà báo, phóng viên phải được củng cố, kiện toàn; tổ chức định kỳ các khóa học bồi dưỡng chính trị, kiến thức chuyên môn, tập huấn nghiệp vụ.

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế về hoạt động lập pháp trong lĩnh vực báo chí. Trước hết, phải tổ chức thực hiện tốt các văn bản quốc tế liên quan đến lĩnh vực báo chí. Đồng thời, chủ động nghiên cứu xây dựng các kế hoạch khảo sát thực tiễn kinh nghiệm lập pháp về tự do ngôn luận trên báo chí ở một số quốc gia có nền báo chí phát triển

Kết luận

Quyền tự do ngôn luận là một quyền tự do cơ bản, nó là quyền của công dân trong xã hội dân chủ, pháp quyền, là chuẩn mực xác nhận một xã hội trong đó người dân có tự do, có quyền lực thực sự. Quyền này có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu các quyền con người cũng như quyền công dân. Đây vừa là quyền mà mỗi công dân có quyền được hưởng, lại vừa là điều kiện để đảm bảo các quyền khác, đặc biệt là các quyền về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.

Những năm gần đây, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh và mạnh mẽ, các quan điểm, xu hướng mới du nhập vào nước ta là tất yếu, không thể tránh khỏi những đòi hỏi lớn hơn từ công chúng về quyền được biểu đạt ý kiến cá nhân của mình trên phương tiện thông tin truyền thông đại chúng về những vấn đề, lĩnh vực trong đời sống văn hóa, xã hội, chính trị đang diễn ra từng ngày từng giờ. Vấn đề quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân ở Việt Nam hiện nay cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho các cơ quan quản lý trong việc bảo đảm và thực hiện quyền này một cách có hiệu quả. Bên cạnh những mặt đã đạt được, cũng còn tồn tài những hạn chế cần được khắc phục Trước hết là để hoàn thiện khung pháp lý về quyền tự do ngôn luận trên báo chí, giúp nhân dân có cơ hội, điều kiện tốt nhất hưởng đầy đủ quyền của mình trên báo chí, tiếp đó là cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, hướng đến xây dựng nhà nước pháp quyền.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hiến pháp năm 2013
  2. Luật Báo chí năm 2016
  3. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948
  4. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị của Liên hợp quốc năm 1966
  5. Đặng Dũng Chí, Bài viết Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí ở Việt Nam, Sách Cơ chế bảo hiến và quyền con người - Kinh nghiệm Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam, Nxb.Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2015
  6. Lê Khánh Huyền, Quyền tự do báo chí của công dân: Lý luận và thực tiễn, Đại học Luật Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, 2018
  7. Đỗ Đức Minh, Truyền thông đại chúng với tự do ngôn luận và tự do thông tin, Tạp chí Pháp luật về Quyền con người số 1-2020
  8. Vũ Đức Thuận, Bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Viện Quyền con người, Hà Nội, 2018

 

[1] Viện Quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh

[2] Lê Khánh Huyền, Quyền tự do báo chí của công dân: Lý luận và thực tiễn, Đại học Luật Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, 2018

[3] Bộ Thông tin và truyền thông, Dự thảo Báo cáo đánh giá tình hình công tác 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm 2020. https://mic.gov.vn/Upload_Moi/FileBaoCao/02-duthaobaocao.pdf

[4] Bộ Thông tin và truyền thông, Dự thảo Báo cáo đánh giá tình hình công tác 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm 2020. https://mic.gov.vn/Upload_Moi/FileBaoCao/02-duthaobaocao.pdf

[5] Bộ Thông tin và truyền thông (2019), Báo cáo Sơ kết 03 năm thi hành Luật Báo chí 2016

[6] Bộ Thông tin và Truyền thông (2014), Báo cáo Tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, Hà Nội, ngày 12/11/2012.

[7] Bộ Thông tin và Truyền thông (2012), Báo cáo đánh giá công tác báo chí năm 2011 và một số nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian sắp tới, Quảng Ninh, tháng 3/2012