Quyền con người là một trong những quyền cơ bản được pháp luật ở hầu hết các nước trên thế giới thừa nhận. Trong đó, quyền được xét xử công bằng nói chung và quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội nói riêng là một trong những quyền  cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như được thể hiện trong các văn kiện quốc tế. Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được bảo đảm bởi nghĩa vụ của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, bảo đảm xét xử bởi tòa án độc lập, khách quan và được thành lập theo luật chính là bảo đảm cho người bị buộc tội được xét xử công bằng.

 QUYỀN-XÉT-XỬ-CÔNG-BẰNG.jpg

 Ảnh minh họa: Nguồn internet

Quyền con người nói chung và quyền được xét xử công bằng trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng đã được pháp luật quốc tế thừa nhận[1]. Chủ thể của quyền này là người bị buộc tội, mà trong giai đoạn xét xử, người bị buộc tội chính là bị can, bị cáo. Với cách tiếp cận này, quyền được xét xử công bằng là một quyền tố tụng cụ thể như quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền nói lời nói sau cùng… hay là một quyền có tính tổng hợp và được bảo đảm bởi các quyền tố tụng cơ bản khác của người bị buộc tội? Quyền được xét xử công bằng (Right to a fair trial) được nhìn nhận như là quyền cơ bản và được bảo đảm từ nhiều quyềncụ thể khác trong tố tụng hình sự như: quyền được xét xử bình đẳng, kịp thời; quyền được xét xử bởi tòa án độc lập, khách quan và được thành lập theo luật; quyền bào chữa; quyền được bảo đảm suy đoán vô tội....

1. Pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được bảo đảm bởi một tòa án xét xử độc lập, khách quan và được thành lập theo luật

Tòa án xét xử độc lập, khách quan và được thành lập theo luật là một trong những nội dung cơ bản được thể hiện trong các văn kiện quốc tế. Điều 10 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UDHR) quy định: “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như bất cứ buộc tội nào đối với họ”.

Khoản 1 Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự...”.

 Khoản 1 Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con người năm 1950 (EMRK) quy định, “…mọi người có quyền được xét xử bởi một cơ quan xét xử độc lập, khách quan, được thành lập theo luật pháp”;...

Quy định của các Công ước cho thấy, người bị buộc tội có quyền được xét xử công bằng, kịp thời được thực hiện bởi tòa án độc lập, khách quan và được thành lập theo luật. Tòa án không chỉ được thành lập theo luật mà còn bảo đảm xét xử độc lập, khách quan. Đây là yếu tố cơ bản của Điều 6 EMRK. Nếu tòa án đã xét xử nhưng không phù hợp với Điều 6 thì không cần phải kiểm tra thêm bất cứ thủ tục tố tụng nào khác. Những thủ tục tố tụng của một phiên tòa không thỏa mãn tiêu chí độc lập và khách quan thì không bao giờ có thể có một phiên xử công bằng và vì vậy không cần kiểm tra xem việc xét xử đó có được tiến hành công khai hay trong một thời gian hợp lý không. Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) lưu ý rằng, ở nhiều nước có tồn tại những tòa án quân sự hoặc tòa án đặc biệt xét xử thường dân có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng trong việc đảm bảo sự bình đẳng, khách quan và độc lập của những tòa án. Lý do thông thường để thành lập những tòa án này là sự cho phép áp dụng những thủ tục ngoại lệ mà không tuân thủ nguyên tắc thông thường của công lý. Ủy ban nhân quyền LHQ cũng khẳng định rằng, quyền này là tuyệt đối và không được có ngoại lệ[2].

Nội dung quyền được xét xử bởi tòa án độc lập, khách quan và được thành lập theo luật được giải thích rõ hơn thông qua Bình luận chung số 32 của Ủy ban nhân quyền LHQ, theo đó: “Người bị buộc tội có quyền được xét xử bởi tòa án được thành lập theo luật thì tòa án được hiểu là một cơ quan, bất kể tên gọi của nó, được thành lập theo pháp luật, độc lập với hành pháp và lập pháp. Quyền này không bị hạn chế và việc một cơ quan nào không phải là tòa án ra bản án là vi phạm nội dung “tòa án được thành lập theo luật”. Điều này có nghĩa là bất cứ khi nào các quyền và nghĩa vụ phù hợp với luật pháp cũng phải được thực hiện thông qua thủ tục tố tụng bởi một tòa án. Nếu nhà nước không thể thành lập một tòa án có thẩm quyền để xác định các quyền và nghĩa vụ hoặc không cho phép tiếp cận với một tòa án như vậy trong các vụ cụ thể thì nhà nước đó đã vi phạm quyền được xét xử bởi tòa án được thành lập theo luật. Cho nên, việc xét xử không dựa trên pháp luật, không có mục tiêu phù hợp với công lý, hoặc dựa trên các trường hợp ngoại lệ của pháp luật quốc tế như miễn trừ… đều dẫn đến vi phạm quyền này.[3]

Ngoài ra, người bị buộc tội có quyền có tòa án xét xử độc lập: “Độc lập” có nghĩa là không có sự lệ thuộc đối với bất cứ cơ quan nào của nhà nước. Có thể nói rằng, sự độc lập phản ánh vị trí hiến định của cơ quan tư pháp - độc lập từ người điều hành và cơ quan lập pháp. Nếu sự độc lập như vậy không tồn tại thì không thể đảm bảo quyền có tòa án xét xử độc lập. Theo Uỷ ban nhân quyền LHQ, yêu cầu về tính độc lập đề cập cụ thể tới thủ tục và năng lực của việc bổ nhiệm thẩm phán, và đảm bảo an ninh của họ cho tới hết nhiệm kỳ hay đến tuổi nghỉ hưu; các điều kiện thăng tiến, chuyển chỗ, đình chỉ, chấm dứt các chức vụ của họ; không có sự can thiệp từ các tổ chức chính trị hoặc từ các ngành hành pháp và lập pháp; bảo vệ thẩm phán khỏi bất kỳ ảnh hưởng chính trị nào…. Thẩm phán có thể bị miễn nhiệm trên cơ sở xem xét tính chất nghiêm trọng của hành vi sai trái hoặc thiếu năng lực[4].

Ở phạm vi rộng hơn, khi bình luận về Điều 6 EMRK [5], học giả Stefan Trechsel khẳng định, có 4 tiêu chí để xác định một cơ quan xét xử có được coi là độc lập hay không: cách thức thẩm phán được bổ nhiệm; nhiệm kỳ của thẩm phán; những bảo đảm đặc biệt chống lại các áp lực từ bên ngoài; biểu hiện của độc lập[6]. Ngoài ra, ông cho rằng, tính độc lập của tòa án thể hiện không chỉ ở thủ tục và năng lực của việc bổ nhiệm thẩm phán mà còn ở thẩm quyền và tính tự chủ của tòa án; cơ quan xét xử chỉ có thể độc lập nếu quyết định của họ có hiệu lực ràng buộc đối với những cơ quan nhà nước khác[7]. Bên cạnh đó, quyền có phiên tòa độc lập hàm chứa rằng, cơ quan xét xử phải được kiểm soát toàn diện đối với các quyết định của mình và không phụ thuộc vào ý kiến của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Cơ quan xét xử phải hoàn toàn có thẩm quyền trong việc xem xét cả hai khía cạnh sự kiện thực tế và yếu tố pháp luật[8].

Không chỉ mang tính độc lập, hoạt động xét xử của tòa án còn đòi hỏi mang tính khách quan: khách quan là “không thuộc về bên nào” hoặc “trung lập”. Thuật ngữ này thường được định nghĩa một cách logic theo cách phủ định: “không có định kiến”.  Yêu cầu về khách quan, không thiên vị có hai khía cạnh: thứ nhất, các thẩm phán không được cho phép phán quyết của họ bị ảnh hưởng bởi sự thiên vị hay thành kiến cá nhân, và cũng không được dựa trên các  tổn hại tới bên khác; thứ hai, phiên tòa phải hợp lý và khách quan. Ví dụ, phiên tòa do một thẩm phán không đủ năng lực thực hiện việc xét xử thông thường không được coi là khách quan[9].

2. Bảo đảm quyền của người bị buộc tội được xét xử công bằng bởi tòa án xét xử độc lập, khách quan và được thành lập theo luật trong tố tụng hình sự Việt Nam

Ở nước ta, khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”; Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “1. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”,“2. Cá nhân, cơ quan tổ chức có hành vi can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”; Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Bộ luật TTHS) quy định: “1.Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”,“2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”.

Những quy định trên cho thấy, ở nước ta, quyền của người bị buộc tội được xét xử công bằng bởi tòa án xét xử độc lập và được thành lập theo luật thể hiện qua các nội dung sau:

- Xét xử độc lập, khách quan: đòi hỏi hoạt động xét xử của tòa án không bị phụ thuộc, không bị tác động bởi bất cứ chủ thể nào; thông qua phiên tòa, tòa án kiểm tra, đánh giá chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa…. và đưa ra bản án, quyết định đúng pháp luật; thẩm phán và hội thẩm khi xét xử người bị buộc tội không chịu sự chỉ đạo của lãnh đạo tòa án hay tòa án cấp trên; không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra và cáo trạng (có quyền có quan điểm và kết luận khác với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát); các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng độc lập với nhau, ý kiến biểu quyết của hội thẩm có giá trị như của thẩm phán. Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS cũng nghiêm cấm tổ chức, cá nhân can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án.

- Được thành lập theo luật: mặc dù Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án hình sự, tuân theo các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS, Bộ luật Dân sự khi giải quyết vấn đề bồi thường dân sự trong vụ án hình sự...

3. Một số vướng mắc trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội được xét xử công bằng bởi Tòa án xét xử độc lập, khách quan và được thành lập theo luật trong tố tụng hình sự Việt Nam

Thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta trong những năm qua cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội được xét xử công bằng bởi Tòa án xét xử độc lập, khách quan và được thành lập theo luật, quy định hiện hành của pháp luật tố tụng hình sự còn một số bất cập sau đây:

Thứ nhất, quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội không được bảo đảm khi quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về Tòa án.

            Điều 15 Bộ luật TTHS quy định, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều 34 Bô luật TTHS xác định, cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Quy định này không phù hợp với chức năng xét xử của tòa án được Hiến pháp quy định. Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1.Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Là cơ quan thực hiện chức năng xét xử, Tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tòa án chỉ có nghĩa vụ chứng minh cho quyết định của mình: chấp nhận lời buộc tội (nếu phán quyết của tòa án là có tội) hoặc bác bỏ lời buộc tội (trong trường hợp tòa án tuyên vô tội)[10]. Quy định trên của Bộ luật TTHS gây ảnh hưởng đến hoạt động xét xử độc lập, khách quan của tòa án. Ngoài ra, xét ở góc độ thực tiễn, trong phiên tòa xét xử, thông thường thẩm phán đặt câu hỏi theo hướng chứng minh lỗi của bị cáo hoặc ngược lại. Việc quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc trách nhiệm của Tòa án đã làm cho hoạt động xét xử của Tòa án không còn mang tính khách quan, ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.

Thứ hai, nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Hiện nay, theo quy định của Điều 74 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, nhiệm kỳ đầu của các thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Việc giới hạn nhiệm kỳ dẫn đến tâm lý của thẩm phán không yên tâm khi làm việc. Đặc biệt là khoảng thời gian gần bổ nhiệm lại, thẩm phán dễ bị sự tác động từ các yếu tố bên ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân làm nguyên tắc tòa án xét xử độc lập, khách quan bị ảnh hưởng.

Thứ ba, quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội không được bảo đảm khi giữa thẩm phán và hội thẩm nhân dân chưa độc lập trong hoạt động xét xử.

- Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hình sự thường thụ động, nhường quyền chủ động cho các thẩm phán. Điều này làm mất tính “ngang bằng” và “độc lập” của hội thẩm nhân dân theo luật định.

          - Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc về tổ chức, tái bổ nhiệm, thi đua khen thưởng và các lợi ích khác như các thẩm phán, thêm vào đó là chế độ thù lao thấp nên khó khuyến khích Hội thẩm nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động xét xử.

4. Một số giải pháp bảo đảm quyền của người bị buộc tội được xét xử công bằng bởi Tòa án xét xử độc lập, khách quan và được thành lập theo luật trong tố tụng hình sự Việt Nam

Một là, sửa đổi quy định của Bộ luật TTHS về nghĩa vụ chứng minh của tòa án.

Để bảo đảm cho người bị buộc tội được xét xử công bằng bởi tòa án xét xử độc lập, khách quan cần sửa đổi Điều 15 Bộ luật TTHS theo hướng giải phóng Tòa án khỏi nghĩa vụ chứng minh là một trong những cơ sở pháp lý đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án có tính khách quan, công bằng. Theo đó, Tòa án chỉ có nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Đây cũng là nghĩa vụ chứng minh tính có cơ sở của bản án, quyết định của tòa án[11].

Ba là, sửa đổi quy định về nhiệm kỳ của thẩm phán.

Một trong những yếu tố quan trọng để tòa án xét xử độc lập, khách quan chính là sự độc lập của thẩm phán trong hoạt động tố tụng. Để bảo đảm cho người bị buộc tội được quyền xét xử công bằng bởi tòa án xét xử độc lập, khách quan, kịp thời, nhanh chóng cần xây dựng chế độ đãi ngộ, kinh phí hoạt động của Tòa án, tuổi hưu, nhiệm kỳ và chế độ lương của thẩm phán... cho phù hợp, tạo điều kiện để Tòa án hoàn thành tốt chức năng xét xử của mình.

Tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến đối với Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), đa số đại biểu Quốc hội đồng ý với Dự thảo là kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) không thời hạn với lý do Thẩm phán TANDTC là ngạch Thẩm phán đặc biệt với những tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm cao, người được bổ nhiệm làm Thẩm phán TANDTC phải trải qua một quá trình công tác lâu dài, năng lực và uy tín cao. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, kéo dài nhiệm kỳ không chỉ quy định riêng cho Thẩm phán TANDTC mà cho cả thẩm phán nói chung. Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị xác định: “Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn[12]. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, khắc phục những hạn chế về nhiệm kỳ của thẩm phán theo quy định hiện hành, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi nhiệm kỳ của thẩm phán hiện hành theo hướng: Thẩm phán TANDTC được bổ nhiệm không kỳ hạn cho đến tuổi nghỉ hưu; nhiệm kỳ đầu của thẩm phán khác là 5 năm; nếu được tái bổ nhiệm thì nhiệm kỳ sau được kéo dài cho đến tuổi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Tuổi làm việc và tuổi nghỉ hưu của thẩm phán áp dụng thống nhất theo quy định của Bộ luật Lao động.

Bốn là, nâng cao tính độc lập của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử.

Độc lập và tuân theo pháp luật khi xét xử của thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là đòi hỏi khách quan của hoạt động xét xử, đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của Tòa án và cũng là bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Để bảo đảm tính độc lập của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, tác giả cho rằng, cần thực hiện một số giải pháp sau:

- Sửa đổi khoản 2 Điều 85 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định về tiêu chuẩn hội thẩm nhân dân theo hướng thay đổi cụm từ “có kiến thức pháp luật” bằng cụm từ “có bằng cử nhân luật” phải có kiến thức pháp luật. Hiện nay, còn nhiều hội thẩm nhân dân chưa có bằng cử nhân luật, trong khi đó nguồn nhân lực có trình độ cử nhân luật hiện đang làm việc trong các cơ quan đơn vị còn nhiều.

- Chuyên môn hóa lĩnh vực tham gia xét xử của hội thẩm nhân dân. Tòa án được tổ chức theo từng lĩnh vực chuyên môn. Các thẩm phán có chuyên môn nghiệp vụ mà vẫn làm việc theo từng lĩnh vực, trong khi hội thẩm nhân dân được tham gia xét xử mọi phiên tòa. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của hội thẩm. Vì vậy, cần phân chia các hội thẩm thành lĩnh vực chuyên sâu như thẩm phán để nâng cao chất lượng xét xử của hội thầm.

- Tăng cường chế độ thù lao cho hội thẩm nhân dân, bảo đảm chi phí đi lại, sinh hoạt khi tham gia xét xử./.

THS. NGUYỄN TRẦN NHƯ KHUÊ

Giảng viên Khoa Luật, Học viện Cán bộ Tp. HCM


[1] Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Công ước châu Âu về quyền con người năm 1950 (EMRK).

[2] Stefan Trechsel (with the assisistance of Sarah J. Summers) (2005), Human Rights in Criminal Proceedings, Oxford University Press, p.54.

[3] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Bình luận chung số 32, Quyền con người – Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc (sách tham khảo), Nxb. Công an nhân dân, tr.363.

[4] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tlđd, tr.364.

[5] Stefan Trechsel, tlđd, tr.54.

[6] Xem: Stefan Trechsel, tlđd, tr.57.

[7] Xem: Stefan Trechsel tlđd, tr.57.

[8] Tính tự chủ của Tòa án Bỉ liên quan đến một số vụ án: Delcourts, Borgers và Vermeulen. Chính phủ Bỉ đã tranh luận rằng, Trưởng công tố có mặt suốt quá trình xét xử của Tòa án là cần thiết để bảo đảm sự thống nhất trong các vụ án. Tuy nhiên, cơ quan xét xử với nghĩa tại Điều 6 của Công ước châu Âu về quyền con người không những không cần mà không ủng hộ sự “bảo đảm” như vậy. Họ phải quyết định vụ án đúng theo thủ tục tố tụng và phù hợp với mục đích của thủ tục thẩm vấn trước đó. Xem : Stefan Trechsel, tlđd, tr.58.

[9] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tlđd, tr.365.

[10] Nguyễn Mạnh Kháng (2008), Bàn về chức năng tố tụng của tòa án và vấn đề độc lập của hoạt động xét xử, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (246), tr.26.

[11] Lê Nguyên Thanh (2015), Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong TTHS nhằm đảm bảo quyền bào chữa và bảo đảm tranh tụng, Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học Luật TP. HCM số 08.

[12] Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 2/6//2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20 (420), tháng 10/2020.)