Có thể khẳng định, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc; được xem như là một thước đo của sự tiến bộ, trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Trong một chặng đường dài của lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải hy sinh xương máu của nhiều thế hệ để bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, giành lấy quyền cơ bản của con người. Vì vậy, từ khi thành lập cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định, quyền con người là một trong những mục tiêu, lý tưởng có tính nhất quán, thể hiện rõ trong các chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ cách mạng.
1. Bảo đảm quyền con người là một trong những mục tiêu quan trọng, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, thể hiện rõ nét trong các Cương lĩnh của Đảng, định hướng cho các hoạt động thực tiễn
Thực tiễn minh chứng, đấu tranh giành lại và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là mục tiêu xuyên suốt các giai đoạn cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Các Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng luôn lấy việc giành và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân là mục tiêu của cách mạng. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo (“Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt”) được Hội nghị thành lập Đảng, ngày 03/2/1930 thông qua đã xác định, thực hiện cuộc cách mạng đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến đem lại quyền công dân cho mọi người - tiền đề cho sự phát triển của xã hội trong các giai đoạn tiếp theo. Làm rõ vấn đề này, Chánh cương viết: Đảng “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” và xác định rõ ràng những tiêu chí nhân quyền mà cộng đồng quốc tế cho đến nay vẫn còn đang hướng tới: “Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục...”.
Thực hiện Chánh cương, Luận cương chính trị năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã thực hiện thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám, 1945. Tư tưởng quyền con người lại một lần nữa thể hiện sâu sắc trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ của Đảng soạn thảo và công bố vào ngày 2/9 năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng...”. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”1. Như vậy, quyền con người gắn liền với cuộc đấu tranh vì nền dân chủ và độc lập dân tộc, vì vậy, người dân Việt Nam trước hết phải thoát cảnh nô lệ thực dân và phải được làm dân của một đất nước độc lập. Việc đề cao tư tưởng nhân quyền và dân quyền cũng chính là để khẳng định: mục tiêu của cách mạng Việt Nam hoàn toàn phù hợp với khuôn khổ pháp lý quốc tế, với “lẽ phải” thông thường. Việc trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp cũng là để khẳng định bản chất của Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám là vì dân chủ, vì nhân quyền và dân quyền. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết cho việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người với quyền dân tộc tự quyết và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ quyền con người của Nhà nước Việt Nam qua từng thời kỳ cách mạng.
Định hướng trên không chỉ hàm chứa tư tưởng sâu sắc, mà còn thể hiện rõ tư duy, nhãn quan chính trị vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì hiện nay, mối liên hệ này được cộng đồng quốc tế coi là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế: “Quyền dân tộc tự quyết không thể bị tước đoạt” và “việc khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm quyền con người”. Theo đó, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam là bản Tuyên ngôn có chiều sâu đa tầng: Tuyên ngôn về quyền dân tộc tự quyết; Tuyên ngôn về quyền con người của dân tộc Việt Nam và Tuyên ngôn nhân quyền của các dân tộc bị áp bức.
Trong Cương lĩnh Thứ hai của Đảng ta (còn gọi là Chính cương Đảng Lao động Việt Nam) được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng thông qua (tháng 02/1951) trong điều kiện nước ta đang tập trung thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược. Thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt đấu tranh giành lại và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Cương lĩnh Thứ hai của Đảng ta không chỉ làm rõ các nhiệm vụ quân sự, chống thực dân xâm lược mà còn đề cập tới nhiều nội dung về chính trị, dân sự theo tinh thần tôn trọng và bảo đảm quyền con người gắn với chế độ xã hội do Đảng ta lãnh đạo; đồng thời đã làm rõ thế nào là quyền con người và quyền công dân. Cương lĩnh Thứ hai còn nêu: “Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân, nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức...”2. Cương lĩnh Thứ hai của Đảng còn đề cập quyền tự do tín ngưỡng, bình đẳng giữa các dân tộc: “Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng... Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc”3. Những định hướng này của Đảng ta cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và được phát huy, nhất là các chính sách đối với các tôn giáo, các dân tộc thiểu số luôn được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm.
Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong việc bảo đảm và thực thi quyền con người, nhưng chỉ có ý nghĩa khi Nhà nước sử dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho người dân. Vì vậy, ngay sau khi đất nước vừa giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”4; “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền lực đều là của dân, chính quyền từ xã đến Trung ương đều do dân cử”5. Theo đó, các bản Hiến pháp của nước ta đều thể hiện mục tiêu xây dựng một chế độ nhà nước dân chủ với nguyên tắc nhất quán: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc nhân dân”. Cũng theo định hướng đó, tuy gặp nhiều khó khăn do phải trải qua hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, chú trọng đặc biệt việc đối với vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người. Điều này thể hiện rõ nhất chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với tù binh, hàng binh Pháp, Mỹ - Ngụy; việc tham gia nhanh chóng vào các công ước quốc tế về luật nhân đạo, quyền con người (gia nhập Công ước quốc tế Genève về bảo hộ nạn nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh (năm 1957); từ năm 1977, sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người); việc hiến định và nội luật hóa các nguyên tắc, các quy định cơ bản này vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Như vậy, trong các văn kiện trước đổi mới, Đảng ta luôn lấy việc giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Không thể có quyền con người, quyền công dân khi không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Do đó, muốn thực hiện hóa được quyền con người, quyền công dân thì nền tảng quan trọng, điều kiện trước hết là đất nước phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng. Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản và chủ quyền quốc gia của Việt Nam - một trong những nội dung cơ bản trong quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta - thể hiện sự hài hòa giữa tính phổ quát và tính đặc thù, giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Đây còn là nguyên tắc nền tảng - nguyên tắc dân tộc tự quyết - vì một dân tộc không có quyền này thì không có quyền con người của từng cá nhân thành viên.
2. Các chủ trương, định hướng bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới không chỉ thể hiện rõ tính nhất quán mà còn phản ánh sự phát triển nhận thức của Đảng về quyền con người
Tính nhất quán về quyền con người trong chủ trương, chính sách của Đảng ta còn thể hiện rõ ở văn kiện của các kỳ đại hội, nhất là từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) - mở ra một thời kỳ mới, đổi mới toàn diện cả kinh tế - xã hội, thể hiện rõ, trong nhận thức và bảo đảm quyền con người ngày càng được đổi mới, hoàn thiện hơn.
Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy về lý luận, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị. Đổi mới về kinh tế đã đặt con người vào vị trí trung tâm, phát huy được nhân tố con người, gắn quyền con người với điều kiện kinh tế - xã hội, tôn trọng và thúc đẩy quyền con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội VI khẳng định: “Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”6.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII có ghi: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”7 và khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế”8. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta đã xác định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”9. Sự phát triển và thực thi quyền con người không thể theo ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan, cho nên “Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hóa nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với các tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi”10. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo: “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”11.
Việc bảo đảm quyền con người là một mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, là trách nhiệm lớn của Đảng, Nhà nước ta và khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội. Theo đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”12. Do đó, Việt Nam chủ động tham gia vào các diễn đàn và hoạt động nhân quyền khu vực cũng như toàn cầu, là “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đặc biệt, “Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”13.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiến thêm một bước cơ bản trong bảo vệ quyền con người với sự khẳng định: “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện”14. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”15. Cương lĩnh cũng xác định mục tiêu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước là nhằm khơi dậy và bảo đảm “phẩm giá con người” và “bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân”, cũng như khẳng định quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định nghĩa vụ của Nhà nước không chỉ ở việc tôn trọng, mà còn bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Tiếp tục phát triển về tư duy, trong Văn kiện Đại hội XII, quyền con người được khẳng định với việc xây dựng một xã hội: “bảo đảm tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến... Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”16. Đại hội XII của Đảng nhận định: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”17. Chú trọng xây dựng: “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”18. Điều này không chỉ thể hiện rõ sự phát triển trong nhận thức, mà biến đó thành nhiệm vụ, thành hoạt động thực tiễn cần phải thực hiện đồng thời với các nhiệm vụ khác trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, các văn kiện của Đảng, như các Cương lĩnh, nghị quyết các Đại hội của Đảng, trực tiếp là các Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X không chỉ đúc kết những quan điểm cơ bản về quyền con người, mà còn khẳng định, Đảng ta luôn xuất phát từ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, bởi lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân là hoàn toàn thống nhất. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta ngày càng phát triển và củng cố; các quyền con người cơ bản được pháp luật thừa nhận, đang ngày càng có thêm những điều kiện mới để hiện thực trong đời sống xã hội. Nắm chắc định hướng này sẽ tạo ra bước phát triển vững chắc, không chỉ bảo đảm giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người, mà quan trọng nhất là đem lại tự do, hạnh phúc cho người dân Việt Nam - một nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng và cũng là mục tiêu chủ yếu, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
3. Thời gian tới, để thích ứng với bối cảnh mới có nhiều thay đổi mau lẹ, phức tạp, khó lường ở cả cấp độ quốc gia, khu vực và thế giới; góp phần giữ vững mục tiêu nhất quán, xuyên suốt nêu trên, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
- Chú trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về quyền con người và đấu tranh với hoạt động lợi dụng vấn đề quyền con người chống phá Việt Nam. Triển khai các chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước về lĩnh vực quyền con người, trên cơ sở đó, cung cấp các luận cứ khoa học để khẳng định, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là một trong những mục tiêu, lý tưởng có tính nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta; đồng thời làm nền tảng cả mặt lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng, thực hiện quyền con người, quyền công dân ở nước ta. Việc nghiên cứu khoa học cần làm rõ sự tương đồng hay những vượt trội về chủ trương, chính sách của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân; từ đó làm cơ sở để thực hiện tốt công tác tuyên truyền đối nội, đối ngoại nhằm làm rõ bản chất chế độ tốt đẹp và đặc trưng nhân văn do con người, vì con người của xã hội xã hội chủ nghĩa; đưa những nội dung này vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm vừa gia tăng thu nhập dân cư, vừa bảo đảm nguồn thu của ngân sách nhà nước, như sử dụng hợp lý công cụ thuế để khuyến khích phát triển kinh tế và điều tiết thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội. Những thành quả tăng trưởng kinh tế cần được chia sẻ đầy đủ và công bằng cho các tầng lớp dân cư. Chủ động hợp tác quốc tế, tranh thủ thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, nhất là từ các cơ chế/sáng kiến, liên kết, hợp tác trong khu vực và thế giới, tạo sự đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân.
- Tiếp tục cải cách tư pháp, cải cách hành chính nhằm tổ chức thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về quyền con người... Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành các quy định pháp luật về an ninh con người trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đưa các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân ở nước ta.
- Ưu tiên phát triển mạng lưới an sinh xã hội, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Xây dựng và thực hiện hiệu quả các thiết chế, cơ chế phù hợp trong giải quyết những vấn đề phức tạp, những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường; giải phóng tiềm năng phát triển xã hội cũng như con người, đồng thời duy trì được sự ổn định và gắn kết xã hội. Tập trung đổi mới quản lý nhà nước về an sinh xã hội trên cơ sở thống nhất và thu gọn đầu mối quản lý các chương trình, tăng cường hiệu quả cung cấp dịch vụ; huy động nguồn lực xã hội và quốc tế để hỗ trợ cho hoạt động an sinh xã hội, nâng cao trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và cộng đồng nhằm bảo đảm sự bền vững của an sinh xã hội.
TS. Bùi Thanh Tuấn
Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an, Bộ Công an