Tóm tắt: Bản Tuyên ngôn độc lập (1945) của Việt Nam trước hết là một văn kiện chính trị nhằm tuyên bố rộng rãi trước nhân dân cả nước và thế giới về quyền độc lập của một quốc gia - dân tộc. Đồng thời, Tuyên ngôn độc lập còn thể hiện khát vọng về một tương lai sáng lạn của dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc và hạnh phúc, tự do cũng là những giá trị lớn của thế kỷ XX. Bài viết này xoay quanh vấn đề khát vọng của dân tộc Việt Nam được kết tinh trong Tuyên ngôn độc lập và việc tiếp tục hiện thực hóa khát vọng ấy trong Hiến pháp năm 2013.

Từ khóa: Tuyên ngôn độc lập, khát vọng dân tộc, Hiến pháp Việt Nam.

Abstract: The 1945 Declaration of Independence of Vietnam is first and foremost a political document to widely declare before the people of the country and the world the right of independence of a nation - a people. At the same time, the Declaration of Independence also expresses the desire for a bright future of the Vietnamese people. National independence, happiness and freedom are also great values of the twentieth century. This article revolves around the Vietnamese nation's aspiration crystallized in the Declaration of Independence and the continuation of that aspiration in the 2013 Constitution.

Keywords: Declaration of independence, national aspirations, Vietnamese Constitution.

1.  Tuyên ngôn độc lập: khát vọng về quyền con người và quyền của các dân tộc

Bản Tuyên ngôn độc lập (1945) của Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn biến mau lẹ với sự đầu hàng khá nhanh của quân đội Nhật và vào lúc các nước Đồng minh cũng như các lực lượng chính trị chưa kịp hành động ở Việt Nam và Đông Dương. Mặc dù việc soạn thảo hết sức khẩn trương, nhưng Tuyên ngôn đã phản ánh khá đầy đủ hoài bão của dân tộc Việt Nam, cũng là xu hướng chung của các dân tộc trong thế kỷ XX.

Sự phát triển của lịch sử cho thấy, quá trình phát triển của nhân loại cũng chính là quá trình con người đấu tranh nhằm thỏa mãn khát vọng của mình về tự do trong các quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ với tự nhiên. Đó cũng chính là khát vọng về quyền con người. Nhưng từ khi con người thành lập ra nhà nước, hình thành nên dân tộc, thì cũng là lúc quyền sống, quyền tồn tại của các quốc gia-dân tộc thường xuyên bị đe dọa hoặc bị tước đoạt. Sự tước đoạt và đe dọa tước đoạt quyền độc lập của một quốc gia-dân tộc ngày càng trở nên tinh vi và thường xuyên hơn kể từ khi giai cấp tư sản đi tìm thị trường cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa.

Để bảo vệ không gian sinh tồn của mình, xưa nay các quốc gia-dân tộc luôn có xu hướng kháng cự bằng mọi biện pháp; cả nhờ vả bên ngoài và dùng nội lực của chính dân tộc mình… 

Kể từ khi Quân đội Nhật xâm chiếm Đông Dương, Thực dân Pháp đầu hàng, các lực lượng yêu nước Việt Nam được tập hợp xung quanh Mặt trận Việt Minh, đã giành chính quyền khắp cả nước. Cách mạng Tháng Tám còn là kết quả của phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 và xa hơn, kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.

Về lý thuyết, với việc giành chính quyền trên cả nước, dân tộc Việt Nam đã hiện thực hóa được khát vọng giành độc lập của mình. Tuy nhiên, bối cảnh chính trị thế giới vào thời điểm đó hết sức phức tạp; đặc biệt sau các quyết định của các nước thắng trận tại Hội nghị San Phranxico (tháng 6/1945), Hội nghị Potsdam (tháng 7/1945) về vấn đề quản thác và vấn đề giải giáp quân đội Nhật. Một số nước, trong đó có Pháp, tràn trề hy vọng về việc quay trở lại các thuộc địa cũ, với hy vọng sớm tìm kiếm đủ nguồn lực khôi phục nhanh đất nước sau những tàn phá của chiến tranh, cũng như tiếp tục giấc mộng thực dân. Một số nước lại mong muốn tận dụng cơ hội này để mở rộng lãnh thổ hoặc tầm ảnh hưởng…

Thực tế cho thấy, nền độc lập của Việt Nam trở nên hết sức bấp bênh và thường xuyên bị đe dọa. Nhiệm vụ của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh và cộng sự lúc đó là làm sao để vừa giữ vững được nền độc lập lâu dài, vừa tiếp tục mong ước hưng thịnh đất nước.

Do thiết lập được nhiều mối quan hệ đa dạng, đa chiều, nên khi đó lãnh tụ Hồ Chí Minh, dù thông tin có được rất ít ỏi nhưng vẫn nhận rõ mưu đồ của chính giới Pháp và tính phức tạp trong quan hệ của các nước lớn, nhất là xung quanh vấn đề giải giáp quân Nhật ở Đông Dương và vấn đề quản thác1.

Trước thực tế đó, bằng nhiều con đường, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thông điệp đến các nước có liên quan, bày tỏ quyết tâm của dân tộc Việt Nam về một nền độc lập thực sự. Thậm chí, Hồ Chí Minh còn gửi tới Chính phủ Pháp một bản yêu cầu cải cách năm điểm, với các nội dung sau: “Chúng tôi, Mặt trận Việt Minh, yêu cầu người Pháp cho công bố và ghi nhận vào trong chính sách tương lai của Pháp ở Đông Dương các điểm dưới đây: 1) Thực hiện phổ thông đầu phiếu đặng bầu ra một nghị viện để quản lý đất nước, có một viên Toàn quyền người Pháp là Chủ tịch cho đến khi chúng tôi hoàn toàn được độc lập, viên Toàn quyền sẽ lập ra một nội các hay đoàn cố vấn được nghị viện chấp nhận. Quyền hành chính xác của các quan chức nói trên sẽ được thảo luận sau. 2) Độc lập phải được ban bố cho đất nước trong vòng ít nhất là năm năm nhưng không được quá mười năm. 3) Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại cho nhân dân trong nước thông qua một sự đền bù thỏa đáng. 4) Mọi tự do do Liên hợp quốc đề xuất ra sẽ được bảo đảm thi hành cho người Đông Dương. 5) Cấm chỉ việc bán thuốc phiện. Chúng tôi hy vọng rằng các điều khoản trên sẽ được Chính phủ Pháp chấp nhận”2.

A. Pati phát hiện ra rằng, Hồ Chí Minh sớm liên kết vấn đề quyền con người với vấn đề quyền dân tộc tự quyết: “Thấy rõ sự nghèo nàn lạc hậu về kinh tế xã hội của Việt Nam, vốn hoàn toàn chỉ là một xã hội nông nghiệp, đầu tiên ông Hồ đề nghị hãy gạt các quyền lợi địa phương và giai cấp sang một bên đặng phục vụ cho độc lập dân tộc và tự do đối với chủ nghĩa thực dân”3; “Khi ông Hồ nói về nạn đói (...) mãi nhiều tháng sau tôi mới thông cảm được sâu sắc hơn với mối quan tâm và sự đau khổ của ông Hồ. Ngoài việc gần hai triệu người bị chết đói, trong đó phần lớn là trẻ em, nạn đói kém đã tàn phá một cách nghiêm trọng sức khỏe của những người Bắc Kỳ còn sống sót. Điều đó đã hun đúc lòng căm thù của họ đối với những kẻ áp bức Pháp và Nhật và tăng cường quyết tâm chiến đấu và giành lại cuộc sống. Quyền sống - sự sống còn - đó là lý tưởng cao cả nhất của cuộc cách mạng. Phù hợp với điều đó, Đảng cộng sản Đông Dương đã đưa ra khẩu hiệu “chiếm kho thóc để cứu đói nhân dân”. Họ coi đó là nhiệm vụ trung tâm để động viên quảng đại quần chúng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa”4

Đánh giá đúng ý chí giành độc lập của lãnh tụ Hồ Chí Minh và thực tiễn phong trào cách mạng ở “Khu giải phóng Việt Bắc” Việt Nam của các nhóm tình báo Hoa Kỳ đã góp phần định hình chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Dương và Đông Nam Á ít nhất là cho đến hết năm 1946.

A. Pati cho biết, ông đã dự đoán trước được cái giá mà người Pháp phải trả cho việc đánh giá thấp quyết tâm giành độc lập của người Việt Nam, nhưng ông cũng thừa nhận chưa hình dung được về cái kết tương tự đối với người Mỹ ở Việt Nam5.

Trong bối cảnh đó, quyết định công bố Tuyên ngôn độc lập tại một buổi lễ trang trọng và tất cả các hoạt động có liên quan đều được Hồ Chí Minh tính toán cẩn thận và sáng suốt.

Nội dung của Tuyên ngôn độc lập chứa nhiều vấn đề lớn cả về nguyên tắc cơ bản với những dẫn chứng cụ thể. Việc trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp về các quyền con người mà mỗi người cần và xứng đáng được hưởng, không chỉ có ẩn ý chính trị, ngoại giao, mà còn nhấn mạnh một chân lý rõ ràng, không cần chứng minh, không cần bàn cãi. Những hành vi mà người Pháp đã thực hiện đối với dân tộc Việt Nam, được liệt kê, đã lột tả được cái mặt nạ “khai hóa văn minh” về dân chủ, quyền con người cũng như cam kết “bảo hộ” của chính giới Pháp đối với dân tộc Việt Nam.

Trên phương diện pháp lý, Tuyên ngôn độc lập như một bản cáo trạng đanh thép kết tội chủ nghĩa thực dân Pháp về các tội ác chà đạp lên quyền dân tộc và quyền con người của dân tộc và nhân dân Việt Nam. Như vậy, nước Pháp không đủ tư cách đạo đức, chính trị và pháp lý để trở lại “bảo hộ” Việt Nam, kể cả danh nghĩa vùng “lãnh thổ ủy thác” của Liên hợp quốc. Nếu quay lại xứ sở này, họ chỉ ở vị thế bình đẳng như những đối tác thông thường khác.  

Tuyên ngôn đã nhấn mạnh hành động can đảm của dân tộc Việt Nam khi quyết định gia nhập hàng ngũ chống phát xít (như cung cấp thông tin, lương thực, thực phẩm cho các nhóm đặc nhiệm Mỹ đến Việt Nam, cứu phi công Mỹ bị quân Nhật bắn rơi…) để đi đến khẳng định “dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” như những gì Hiến chương Liên hợp quốc đã xác nhận6. Đây lại là minh chứng cho một chân lý hiển nhiên khác (mà người Mỹ thường kiêu hãnh tụng ca): “Tự do không miễn phí”, không ban phát, không cho không, mà phải nỗ lực, phấn đấu hy sinh mới có được. 

Có thể nói, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là văn bản chính trị - pháp lý quan trọng, thể hiện khát vọng của dân tộc Việt Nam về một nền độc lập bền vững và một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình Việt Nam. Nhưng khát vọng độc lập của dân tộc Việt Nam chưa được vững chắc; tự do, hạnh phúc của mỗi người, mỗi nhà chưa thể đến một sớm một chiều. Muốn đạt được khát vọng đó, toàn thể dân tộc Việt Nam phải nỗ lực hiện thực hóa bằng những hoạt động cụ thể; từ xây dựng Nhà nước, tổ chức xã hội, đến thúc đẩy phát triển trên tất cả các lĩnh vực; kể cả trong đối nội cũng như trong hoạt động đối ngoại.

Trên thực tế, ngay sau Ngày độc lập (2/9/1945), dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam đã triển khai hàng loạt hoạt động quan trọng, như: Đoàn kết toàn dân; tổ chức Tổng tuyển cử trên cả nước; thành lập chính quyền của nhân dân, xây dựng Hiến pháp dân chủ; củng cố nền quốc phòng toàn dân; phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; kêu gọi sự thừa nhận quốc tế… Các hoạt động đó nhằm tạo ra tính chính danh của Nhà nước Việt Nam mới, nhưng điều quan trọng hơn là tạo được những tiền đề cần thiết cho việc hiện thực hóa những mục tiêu đã định.

2. Hiến pháp năm 2013 kế thừa, phát triển lý tưởng độc lập dân tộc và quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập   

Để biến những mục tiêu chính trị thành hiện thực, một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với bất cứ quốc gia-dân tộc nào là việc xây dựng hiến pháp. Hiến pháp là cơ sở để xây dựng nhà nước, tổ chức xã hội, định hình sự phát triển của quốc gia.

Nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước theo hướng tiến bộ, văn minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm tới việc xây dựng Hiến pháp theo tinh thần dân chủ; bảo đảm rằng các bản Hiến pháp vừa đủ sức bảo vệ vững chắc nền độc lập, vừa không ngừng thúc đẩy quyền con người. 

Từ những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã mơ ước sau khi giành được độc lập sẽ sắp xếp “một Hiến pháp dân chủ”. Những đường nét cơ bản của bản hiến pháp ấy đã từng bước được phác họa trong đường lối cách mạng của Đảng, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Chương trình Việt Minh nổi tiếng. Nội hàm quyền con người luôn hòa quyện, vừa như mục tiêu đấu tranh, vừa như lời hiệu triệu mọi tầng lớp nhân dân vùng lên đòi lại các quyền con người đã bị chế độ thực dân và phong kiến tước đoạt. Nhưng, để đạt được các quyền con người ấy, trước hết phải giành được độc lập dân tộc và sau cùng cũng phải giữ được nền độc lập ấy bằng mọi giá.

Những thay đổi của hoàn cảnh đất nước và thế giới đã dẫn đến nhu cầu sửa đổi, bổ sung, nhưng các bản Hiến pháp các năm 1959, 1980, 1992 tiếp tục thể hiện mạnh mẽ tinh thần độc lập của dân tộc trong quyết định những vấn đề bảo vệ nền độc lập dân tộc, quyền con người và việc phát triển đất nước. Các bản Hiến pháp này vừa kế thừa tinh thần dân chủ, bảo vệ quyền con người của Hiến pháp đầu tiên, vừa nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển đất nước. Điều đặc biệt là các bản Hiến pháp nói trên đã phản ánh được ý chí và kết quả đấu tranh của dân tộc Việt Nam - qua đó buộc mọi kẻ xâm lược phải thừa nhận một nguyên tắc bất di bất dịch là “độc lập, chủ quyền, thống nhất” của quốc gia-dân tộc Việt Nam. Nhờ sự kiên định đó, đất nước đã vượt qua những thách thức khốc liệt của các chiến tranh vệ quốc và sự bao vây cấm vận, không ngừng phát triển.  

Hiến pháp năm 2013 được thông qua trong bối cảnh mới, sau gần 70 năm đất nước giành được độc lập và gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới; khi Việt Nam đã xác lập được vị thế mới trong các quan hệ quốc tế. Yêu cầu đặt ra là Hiến pháp mới phải bảo vệ được những thành quả cách mạng, đồng thời đáp ứng được xu hướng phát triển chung của thế giới.

Thể chế hóa những nhận thức mới của Đảng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội và yêu cầu mới của đất nước, Hiến pháp 2013 năm đánh dấu bước đổi mới mạnh mẽ về tư duy trên mọi lĩnh vực.

Kế thừa và phát triển những tư tưởng trong Tuyên ngôn độc lập và dưới lăng kính của các học thuyết chính trị, pháp lý tiến bộ của nhân loại, có thể nhận thấy một số điểm nổi bật dưới đây của Hiến pháp năm 2013.

a) Về bảo đảm quyền con người

Khát vọng hiện thực hóa cuộc sống hạnh phúc của người dân được thể hiện ở Lời nói đầu Hiến pháp khẳng định mục tiêu hướng tới của Nhà nước Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và các nguyên tắc tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội và sự tham gia của người dân.

Liên quan trực tiếp đến quyền con người, cùng với việc bổ sung cụm từ “quyền con người” vào tên chương và đặt chương này ở vị trí trang trọng (Chương II), Hiến pháp mới còn thể hiện rõ tư duy mới về quyền con người. Đó là việc phân biệt rõ khái niệm “quyền công dân” với khái niệm quyền con người (sử dụng cả cụm từ “công dân” và cụm từ “mọi người” trong các quy định về quyền); bên cạnh việc xác định quyền đồng thời xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền. Trên cơ sở kế thừa các nguyên tắc và quyền đã ghi nhận trong các Hiến pháp trước đó, Hiến pháp bổ sung một số quyền mới và mở rộng nội hàm của một số quyền; việc hạn chế quyền được ghi nhận khá cụ thể9...

Tham chiếu từ các văn kiện nhân quyền quốc tế, có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam nhìn chung đang tiệm cận các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về quyền con người.

b) Về tổ chức nhà nước và tổ chức xã hội

Nguyên tắc xuyên suốt trong tổ chức và vận hành của Nhà nước Việt Nam là “tập trung dân chủ”10, nhưng đến Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm cụm từ “kiểm soát” khi nói tới vai trò của các nhánh quyền lực: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 3). Như vậy, chức năng tự kiểm soát của nhà nước vẫn được thực hiện mà không cần đến “tam quyền phân lập”.

Hiến pháp Việt Nam luôn coi trọng xây dựng và vận hành sự hoạt động của hệ thống chính trị. Hiến pháp năm 2013 quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (...) là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 9). Ở đây, vai trò “giám sát, phản biện xã hội” được xem như một chức năng rất cơ bản để kiểm soát mọi hoạt động của Nhà nước và Đảng lãnh đạo.

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng lại có vai trò đặc biệt “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4). Cùng với việc xác lập chế độ xã hội “xã hội chủ nghĩa”, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm hiện thực hóa những khát vọng được nêu trong Tuyên ngôn độc lập.

Nhằm hướng tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội, như: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”; “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”; “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 46)…

Để bảo đảm các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp được thực hiện, lần đầu tiên vấn đề bảo vệ hiến pháp được đặt ra: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp” (Lời nói đầu) và “cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Điều 119). 

c) Về phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân

Quyền làm chủ của Nhân dân luôn được Hiến pháp Việt Nam xác lập bằng những nguyên tắc rất cơ bản. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2); “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6)… Trên cơ sở đó, người dân được bảo đảm quyền làm chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Trong quá trình phát huy dân chủ và thúc đẩy quyền con người, việc xác định mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ có ý nghĩa quan trọng, nhưng luôn gây tranh cãi. Hiến pháp Việt Nam luôn xác định “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”, “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”, “Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội”, “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 15)…

Nhằm hưng thịnh đất nước, hàng loạt vấn đề đặt ra cần được ưu tiên giải quyết, trong đó giáo dục có vai trò quan trọng, đi trước. Điều này vừa là việc bảo đảm quyền học tập, nhưng cũng là biện pháp để đào tạo nguồn nhân lực cao cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nền sơ học cưỡng bức và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước” (Điều 15). Tiếp tục quan điểm này, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý”, “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” (Điều 61).

d) Về giữ vững nền độc lập dân tộc

Do vị trị địa chính trị - chiến lược khá đặc biệt của mình, Việt Nam luôn nằm trong sự lựa chọn xâm lăng của một số nước và ở trung tâm của những cuộc cạnh tranh địa chính trị - chiến lược. Vì thế, cùng với kinh nghiệm lịch sử và dự báo được các xu hướng chung, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng việc giữ vững nền độc lập dân tộc trong bất kỳ tình huống nào.  

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục nhấn mạnh các nguyên tắc căn bản: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”, “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11); “Công dân có nghĩa vụ (…) tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” (Điều 46).

Do đặc thù của chế độ chính trị ở Việt Nam và kinh nghiệm từ sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu trước đây, Hiến pháp đã xác định cụ thể, rõ ràng hơn vai trò của quân đội và công an so với Hiến pháp năm 1992: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” (Điều 65). Đây là vấn đề luôn bị các lực lượng đối lập trong và ngoài nước đả kích, chống phá.

Trong bối cảnh ấy, nhiệm vụ quan trọng đặt ra hiện nay là cần tiếp tục nâng cao nhận thức của cả xã hội rằng, ở Việt Nam, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ sức tập hợp, lãnh đạo thành công sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Vì thế, việc kiên định quan điểm về vai trò, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang có ý nghĩa quan trọng để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ chính trị mà dân tộc đã lựa chọn suốt hơn 75 năm qua.

Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện cam kết hợp tác quốc tế trong bảo vệ quyền dân tộc và quyền con người, điều hiếm thấy trong hiến pháp các nước: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Điều 12).

Quan hệ hữu nghị với các nước là một nội dung quan trọng của Tuyên ngôn độc lập và luôn được Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán. Phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Việt Nam và đang được tiếp tục phát huy trong giai đoạn mới của đất nước, vừa bổ sung thêm kinh nghiệm và nguồn lực trong bảo vệ quyền con người, vừa góp phần vào việc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. 

Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 là cột mốc mới, đánh dấu bước ngoặt trong việc tiếp tục mục tiêu, nhiệm vụ được đặt ra trong Tuyên ngôn độc lập về quyền dân tộc tự quyết và quyền con người11. Trên cơ sở Hiến pháp mới, việc tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội, thu hút sự tham gia của người dân ngày càng đi vào chiều sâu, luôn nhận được sự ủng hộ của toàn dân cũng như của cộng đồng quốc tế.

Đánh giá về những thành tựu bước đầu trong thực hiện Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ghi nhận: “Hiến pháp năm 2013 tạo nền tảng chính trị - pháp lý quan trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ đất nước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thành mục tiêu và các chỉ tiêu cơ bản kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi đà tăng trưởng, cải thiện môi trường đầu tư; giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển; an sinh xã hội được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội ổn định, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững hòa bình, ổn định; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao; dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy…”.

Đó chính là cơ sở và động lực để Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tựu mới trong bảo đảm quyền con người và giữ vững được nền độc lập của mình trong bối cảnh khu vực và thế giới đầy biến động và bất trắc hiện nay.

• PGS.TS. Đặng Dũng Chí*

(*) Nguyên Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Tài liệu trích dẫn

(1) L.A.Patti cho biết: “…lần đầu Đông Dương đã trở thành một vấn đề nói trong các công hàm của Tổng thống [Hoa Kỳ] vào tháng 11/1944. Khi Wedemeyer báo cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp đang hoạt động mạnh mẽ để nhằm khôi phục lại địa vị của và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á”; “Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng Ba 1945, Tổng thống đã nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và Pháp trong khu vực này và chỉ được giúp đỡ họ những gì mà các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đòi hỏi” (Xem Archimedes L.A.Patti: Why Vietnam - Tại sao Việt Nam. Nxb Đà Nẵng, 2008, tr.236.

(2) Archimedes L.A. Patti: Why Vietnam - Tại sao Việt Nam. Nxb Đà Nẵng, 2008, tr.248.

(3);(4);(5) Archimedes L.A. Patti: Why Vietnam - Tại sao Việt Nam. Nxb Đà Nẵng, 2008, tr.254.

(6) Hiến chương Liên hợp quốc, tại Điều 1 khẳng định: “2. Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hoà bình thế giới; 3. Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”.

(7) Jean Jacques Rousseau: Bàn về khế ước xã hội. Nxb Lý luận chính trị, H, 2006, tr.52.

(8) Tại phiên bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa I (9/11/1046) Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hơn 10 ngày nay, các đại biểu đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau khi nước nhà mới tự do được 14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp. Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, dân quyền và dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém. Quốc hội đã thông qua bản Luật lao động. Kiến thiết phải sản xuất. Sản xuất phải cần có sức lao động”. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t. 4, tr. 440–441. 

(9) “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14).

(10) Được xác lập từ Hiến pháp đầu tiên và cụm từ này chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959.

(11) Nghị quyết 143/2016/QH13 về công tác nhiệm kỳ 2011 - 2016 của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước.