Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự chính là việc việc cơ quan thi hành án dân sự tước đi quyền tự định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu, sử dụng tài sản với tư cách là người phải thi hành án. Thi hành án là lực thi công lý, do đó, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích của người được thi hành án theo phán quyết của Tòa án thì cũng phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với tài sản bị kê biên. Bởi vậy, việc thiết lập những nguyên tắc chặt chẽ nằm bảo đảm quyền của cá nhân bị kê biên tài sản trong thi hành án dân sự là hết sức cần thiết.
1. Khái quát về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án và các cơ quan tài phán được thực hiện trên thực tế, góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, đảm bảo công bằng, thực thi công lý và củng cố lòng tin của nhân dân. Hoạt động thi hành án là khâu cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của toà án được đưa ra thi hành trên thực tế. Việc thi hành án đạt hiệu quả, một mặt sẽ bảo đảm được việc thực hiện quyền lực Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của mọi chủ thể trong xã hội đối với phán quyết của tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm 2013, khẳng định: "Bản án, quyết định của tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu,quan phải nghiêm chỉnh chấp hành". Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi. Do đó, các biện pháp cưỡng chế, kê biên thi hành án dân sự được áp dụng.
Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự là một trong 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành. Với tính chất dân sự của mình, thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự (chủ yếu là các quyền, nghĩa vụ về tài sản) của các bên đã được bản án, quyết định của Tòa án ghi nhận. Trong thi hành án dân sự các bên có quyền tự định đoạt, thỏa thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án. Tuy nhiên khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện thi hành, thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành án. Cưỡng chế thi hành án thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm bảo đảm bản án được thi hành nghiêm chỉnh đúng pháp luật. Việc kê biên tài sản cũng áp dụng với đối tượng là với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản cũng như đối với người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải tất cả các tài sản của những người thuộc các đối tượng trên đều bị kê biên.
Việc kê biên tài sản của người phải thi hành án có những đặc điểm chung của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như: Thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước; Được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của tòa án; Đối tượng của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án mà cụ thể đối tượng của biện pháp kê biên là tài sản của người phải thi hành án; Người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tuyên họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡngchế thi hành án dân sự; Biện pháp cưỡng chế được chấp hành viên quyết định áp dụng có hiệu lực đối với người phải thi hành án dân sự và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Ngoài ra, do tính đặc thù nên biện pháp kê biên tài sản phải đáp ứng một số yêu cầu riêng như: i) Tất cả tài sản của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án (trừ những tài sản không được kê biên đã được quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án dân sự 2014); ii) Người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với người được thi hành án về tài sản được kê biên để đảm bảo thi hành án; trong trường hợp nếu hai bên đương sự không thỏa thuận được với nhau thì người phải thi hành án có quyền đề nghị thứ tự kê biên tài sản và chấp hành viên xen xét có chấp hành được đề nghị đó hay không, nếu đề nghị đó không cản trở việc thi hành án và không trái quy định của pháp luật thi chấp hành viên chấp hành đề nghị đó; iii) Chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí liên quan; iv) Trong trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thực hiện mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó nhưng chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hạị; v) Đối với tài sản của người phải thi hành án đã được cầm cố, thế chấp cho người khác nhưng tài sản đó lại có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm bằng việc cầm cố, thế chấp hoặc người phải thi hành án không còn tài sản nào khác thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản này để thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Trường hợp tài sản kê biên có tranh chấp thì chấp hành viên yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện ra tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết và vẫn tiến hành cưỡng chế kê biên; Đối với tài sản kê biên thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đất hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm, theo quy định của pháp luật thì khi kê biên, xử lý tài sản chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho các cơ quan liên quan được biết.
2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của cá nhân bị kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Hoạt động thi hành án tuy không thuộc cơ quan tố tụng nhưng trên thực tế lại là hoạt động thực hiện công việc của cơ quan tố tụng. Sản phẩm của Tòa án là các bản án, quyết định nhưng đó chỉ là sản phẩm được tuyên trên giấy còn các quyền lợi trong bản án, quyết định có được thi hành trên thực tế hay không thì đó là trách nhiệm của cơ quan thi hành án. Vì vậy công tác thi hành án dân sự, trong đó có hoạt động kê biên tài sản, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức các bản án, quyết định của tòa án. Do đó, bảo đảm quyền của cá nhân khi bị kê biên tài sản trong thi hành án dân sự chính là một nội dung hiện thực hóa quyền dân sự của con người, có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả cá chủ thể trong mối quan hệ này.
Thứ nhất, đối với đương sự
Trong quá trình tổ chức thi hành quyết định thi hành án khi người phải thi hành án là cá nhân mà đã bị kê biên xử lý tài sản để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án mà vẫn không đủ để trả nợ theo bản án, quyết định, chấp hành viên đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án xác định không còn bất cứ tài sản gì để thi hành và người được thi hành án có văn bản đồng ý đề nghị cơ quan thi hành án đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ thi hành án còn lại theo quyết định thi hành án thì trên cơ sở đề nghị của người được thi hành án, cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án trong đó quyết định cụ thể việc cá nhân hoặc tổ chức phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định như: nghĩa vụ: buộc trả nợ Ngân hàng, bồi thường sức khỏe, cấp dưỡng nuôi con, giao con, công nhận cha, mẹ cho con...
Cũng trong quá trình tổ chức, giải quyết việc thi hành án nếu người được thi hành án phát hiện người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án đề nghị Cơ quan thi hành án áp dụng biện phápcưỡng chế thi hành án dân sự.
Thứ hai, đối với xã hội
Đóng góp cho công tác xây dựng pháp luật, công tác thi hành án dân sự trên thực tế sẽ giúp cho khắc phục những khiếm khuyết của quá trình xét xử. Nếu bản án, quyết định của tòa tuyên có sai sót, nhầm lẫn, tối nghĩa, không khách quan, thiếu tính khả thi thì gây khó khăn cho việc thi hành án bản án, quyết định, ngược lại nếu bản án, quyết định của Tòa án tuyên đúng thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Trên cơ sở những bất cập trong các quy định của pháp luật đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, đồng thời kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó để rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, góp phần củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án trong xã hội.
Thứ ba, đối với cơ quan thi hành án và Nhà nước nói chung
Hoạt động thi hành án không thuộc cơ quan tố tụng nhưng trên thực tế lại là hoạt động thực hiện công việc của cơ quan tố tụng. Sản phẩm của Tòa án là các bản án, quyết định nhưng đó chỉ là sản phẩm được tuyên trên giấy còn các quyền lợi trong bản án, quyết định có được thi hành trên thực tế hay không thì đó là trách nhiệm của cơ quan thi hành án. Vì vậy công tác thi hành án dân sự có vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức các bản án, quyết định của Tòa án.
Quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan và công dân là các quyền về tài sản, về tiền, nhân phẩm, danh dự, uy tín và các quyền lợi khác của đương sự đã được tuyên trong bản án, quyết định theo đó tuyên đương sự buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Cơ quan thi hành án dân sự kịp thời tổ chức thi hành bản án, quyết định nhằm bảo đảm kịp thời quyền của người được thi hành án góp phần giữ vững ổn định chính trị,trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực hiệu quả của cơ quan thi hành án, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
3. Các nguyên tắc pháp luật nhằm bảo đảm quyền của cá nhân bị kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
Để bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị kê biên tài sản nói riêng, pháp luật Việt Nam đã thiết lập một số nguyên tắc luật định có tính định hướng và bắt buộc trong khi thi hành biện pháp kê biên tài sản.
Một là, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Đương sự trong thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 3 Luật Thi hành án dân sự hiện nay bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án. Đương sự trong thi hành án dân sự không giống đương sự trong vụ việc dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tham gia với tư cách nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì khi sang giai đoạn thi hành án họ có thể trở thành người được thi hành án hoặc người phải thi hành, bởi vì Tòa án đã xác định họ được hưởng quyền, lợi ích hoặc phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Như vậy, về nguyên tắc, đương sự trong thi hành án dân sự phải là người có tên trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự; tuy nhiên trong trường hợp chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án hoặc thực hiện ủy quyền theo quy định của pháp luật thì đương sự trong thi hành án dân sự có thể không phải là người có tên trong bản án, quyết định.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự thì theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự. Vì thế, họ không phải là người được hưởng quyền, lợi ích hoặc phải thực hiện nghĩa vụ xác định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự
Hai là, nguyên tắc kết hợp sự tự nguyện với cưỡng chế
Hiện nay, không có quy định nào quy định tự nguyện thi hành án được hưởng quyền lợi cụ thể nào, tuy nhiên, nếu tự nguyện thi hành án thì có nhiều lợi ích, như: không bị áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, chi phí cưỡng chế thi hành án...
Theo quy định tại Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì tự nguyện thi hành án là một trong hai biện pháp thi hành án dân sự, cụ thể: “1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”. Tự nguyện thi hành án là xuất phát từ phía các bên đương sự, nhằm thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí và sự mong muốn của các đương sự. Mặt khác, tự nguyện thi hành án còn là một biện pháp của chấp hành viên được áp dụng trong quá trình thi hành án.
Kết quả của tự nguyện thi hành án là tiền đề, là cơ sở, là căn cứ để chấp hành viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu đương sự không tự nguyện thi hành. Tự nguyện thi hành án là biện pháp đầu tiên, quan trọng để các chấp hành viên thi hành bản án, quyết định trên thực tế. Mặt khác, tự nguyện thi hành án cũng là mục tiêu phấn đấu và cũng là sự mong muốn hướng tới của các cơ quan thi hành án nói chung và của các chấp hành viên nói riêng bởi hiệu quả của việc tự nguyện thi hành án là rất cao, góp phần giữ vững được sự ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết, tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức và tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của công dân. Chủ thể của tự nguyện thi hành án không chỉ là người được thi hành án, người phải thi hành án, mà còn có thể là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Đối với người được thi hành án, sự tự nguyện của người được thi hành án chính là họ dùng quyền lợi của mình đã được bản án có hiệu lực pháp luật ghi nhận để thể hiện sự tự nguyện của mình. Sự tự nguyện thi hành án của người được thi hành án thể hiện ở chỗ họ có thể thỏa thuận với người phải thi hành án về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án, nhưng thỏa thuận này không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án cũng được Nhà nước khuyến khích và được thể hiện như: người được thi hành án đồng ý cho bên phải thi hành án thêm thời gian để thu xếp thanh toán trả nợ cho người được thi hành án; hoặc người được thi hành án cũng có thể đơn phương tự nguyện từ bỏ quyền và lợi ích của họ được hưởng theo bản án quyết định, nếu việc từ bỏ này không làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước hoặc của người khác. Cả hai trường hợp nói trên, tuy cách xử lý khác nhau nhưng về bản chất đều giống nhau đó là thể hiện việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án.
Đối với người phải thi hành án, khi nói đến tự nguyện thi hành án là chủ yếu nói đến sự tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án. Đây là đối tượng thể hiện một cách trực tiếp nhất, cụ thể nhất về bản chất và hình thức của tự nguyện thi hành án. Vì vậy, người phải thi hành án là đối tượng mà các cơ quan thi hành án, các chấp hành viên đặc biệt quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình đối với quyết định thi hành án. Việc tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án có thể được thực hiện đầy đủ, kịp thời và đúng với thời hạn quyết định thi hành án; cũng có thể họ chỉ tự nguyện thực hiện một phần trong các khoản phải thi hành án. Vì vậy, một mặt, phải ghi nhận sự tự nguyện của người phải thi hành án, mặt khác phải tiếp tục động viên, khuyến khích họ nên có thái độ tự giác, tự nguyện trong việc chấp hành pháp luật.
Ba là, nguyên tắc phối hợp hành động giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong thi hành án dân sự
Công tác thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và nhân thân của các bên đương sự, để giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như: Tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án v.v. Vì thế, cơ quan thi hành án dân sự không thể "đơn thân độc mã" thực hiện được các công việc thi hành án, mà cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Trong trường hợp tiến hành cưỡng chế thi hành án thì tùy theo tính chất và mức độ phức tạp của vụ việc mà có thể cần đến sự phối hợp, hỗ trợ cùng một lúc của nhiều cơ quan, tổ chức như: Viện kiểm sát, công an, Ủy ban nhân dân cùng cấp, các cơ quan chuyên môn khác. Do vậy việc phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Trong hầu hết các mối quan hệ phối hợp thì cơ quan thi hành án, chấp hành viên là người phải chủ động, tích cực tạo lập và duy trì các mối quan hệ này, vì được hình thành do nhu cầu của công việc và phục vụ cho công việc. Chấp hành viên là đối tượng đầu tiên phải có kỹ năng phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan. Ngoài việc nắm vững các quy định pháp luật để vận dụng, cần phải có kỹ năng giao tiếp, xây dựng các mối quan hệ để giải quyết công việc nhanh chóng, đạt hiệu quả.
Nhận thức và thực hiện tốt mối quan hệ giữa các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự là rất cần thiết, góp phần thực hiện hiệu quả thi hành án dân sự, bảo đảm cho bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự trên thực tế.
Bốn là, nguyên tắc thi hành án kịp thời, tuân thủ pháp luật
Để đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật, cũng như hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự. Đặc biệt, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có hiệu lực thi hành đã thật sự phát huy được hiệu quả tích cực, tạo hành lang pháp lý cho cơ quan thi hành án dân sự, góp phần tích cực trong việc giải quyết việc thi hành án được nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời chấp hành viên cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Để đạt được kết quả này, các chấp hành viên đã tiến hành hướng dẫn, giáo dục, thuyết phục các bên đương sự tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều trường hợp đương sự không tự nguyện thi hành nên chấp hành viên phải áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Luật Thi hành án dân sự có quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cho thấy sự cần thiết và quan trọng của các biện pháp này đối với công tác thi hành án dân sự nhằm ngăn chặn không cho đương sự tẩu tán tài như phong toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự; tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, nhằm buộc người phải thi hành án có trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình, làm cho công tác thi hành án ngày càng đạt hiệu quả cao. Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thi hành án, ngay cả trong trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu của tài sản, khi áp dụng biện pháp bảo đảm chấp hành viên không cần phải thông báo trước cho đương sự, tránh được việc đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án được quy định trong Luật Thi hành án dân sự nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho chấp hành viên có thể thực hiện ngay việc phong tỏa tài khoản hay tạm giữ tài sản. Kịp thời ngăn chặn hành vi hủy hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, đảm bảo cho cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành án trong những trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Việc giải quyết nhanh gọn, đạt hiệu quả các việc thi hành án thực sự mang ý nghĩa to lớn, tiết kiệm được thời gian, chi phí, công sức; góp phần ổn định quan hệ xã hội, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật của đương sự.
Năm là, nguyên tắc nhân đạo
Nói đến nhân đạo người ta thường hay nghĩ đến nhân đạo trong thi hành án hình sự nhưng trong thi hành án dân sự thì nguyên tắc nhân đạo cũng thể hiện tính nhân văn của cơ quan Nhà nước. Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về thi hành án dân sự. Rất nhiều vụ việc khi thi hành án người phải thi hành án không có bất kỳ tài sản nào khác mà chỉ có tài sản là nơi ở duy nhất của cả gia đình, thậm chí còn có cả các đối tượng trong gia đình là người già, trẻ em, hay là người có công với cách mang, thương binh… khi kê biên tài sản là những đối tượng như thế này chấp hành viên cần phải xem xét đến rất nhiều yếu tố làm sao không ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án, đồng thời vẫn đảm bảo được yếu tố an sinh xã hội cho người phải thi hành án.
Các nguyên tắc nêu trên đã thể chế hóa yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định quan điểm rõ ràng về việc phát triển hệ thống cơ quan thi hành án dân sự trong ngành tư pháp, đồng thời là điều kiện để cơ quan thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ thực thi pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời cũng tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý.
Bùi Thị Mai
Học viên Lớp cao học Pháp luật về Quyền con người - K27
- Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
- Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
- Học viện Tư pháp (2010), Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
- Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
- Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Hà Nội.
- Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
- Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Hà Nội.