1. Khái quát về quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự Việt Nam
Cụm từ "tước tự do" tuy có thể được hiểu theo nhiều cách nhưng trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả xác định giới hạn và phạm vi của "tước tự do" là tước đi quyền tự do cơ bản của con người mà theo đó người bị tước tự do sẽ bị cách ly khỏi môi trường xã hội, phải sống và sinh hoạt theo nội quy nghiêm ngặt trong một môi trường biệt lập với thế giới bên ngoài, chịu sự giam giữ, quản lý, giáo dục và giám sát chặt chẽ của những người có thẩm quyền đã được qua đào tạo và huấn luyện nghiệp vụ bài bản. Ngoài ra, "phụ nữ" cũng có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, ví dụ ở Việt Nam thường coi phụ nữ là "người lớn thuộc nữ giới"2, nhưng trong bài viết chúng tôi cũng xác định tất cả những người mang giới tính nữ đều được coi là phụ nữ.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam, một người có thể bị tước tự do trong trường hợp bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng nhằm ngăn chặn việc tiếp tục thực hiện tội phạm, bảo đảm các hoạt động tư pháp hình sự hoặc bị buộc phải chấp hành án. Khi bị tước tự do, chủ thể quyền không còn được thoải mái làm tất cả những điều mà mình mong muốn, họ không thể thụ hưởng quyền con người một cách đầy đủ giống như bao người khác mà sẽ bị pháp luật tước đi một số quyền cơ bản tự nhiên vốn có của mình như quyền tự do đi lại và sinh hoạt, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hội họp, quyền được chung sống với những người thân trong gia đình, quyền được sống trong điều kiện tiện nghi sang trọng bằng tiền của chính mình... Khi bị tước tự do, những quyền con người còn lại của chủ thể này phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan, cá nhân thực thi nhiệm vụ giam giữ, quản lý, giáo dục và giám sát họ.
Khi nói đến quyền con người của phụ nữ bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam thì chúng ta có thể xác định phạm vi chủ thể của quyền này là những người phụ nữ đang bị tước tự do vì phải chấp hành các biện pháp cưỡng chế trong lĩnh vực tư pháp hình sự như: biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự; bản án hình sự kèm theo quyết định hình phạt tù (tù có thời hạn hoặc tù chung thân) hoặc biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (đối với người dưới 18 tuổi)3. Nguyên nhân của việc bị tước tự do là vì họ đang bị buộc tội hoặc đã bị kết án, đang chấp hành án về một tội phạm nào đó. Các loại biện pháp cưỡng chế tước tự do này đều đòi hỏi người chấp hành phải sống trong môi trường cách ly với thế giới bên ngoài, chịu sự giam giữ, quản lý, giáo dục và giám sát bởi những cán bộ chuyên trách có thẩm quyền. Theo pháp luật Việt Nam, chủ thể quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự sẽ bao gồm cả phụ nữ đang bị buộc tội (chưa bị coi là có tội) và phụ nữ đã bị coi là có tội, cụ thể như sau:
1) Phụ nữ đang bị buộc tội (chưa bị coi là có tội) bao gồm: nữ bị can, nữ bị cáo đang chấp hành biện pháp ngăn chặn tố tụng hình sự tạm giữ, tạm giam: đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bao gồm phụ nữ bị tạm giữ, nữ bị can; nữ bị cáo; người phụ nữ bị kết án phạt tù hoặc bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật; phụ nữ bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ4. Những người phụ nữ này mặc dù chưa bị coi là có tội nhưng theo pháp luật Việt Nam thì họ vẫn có thể bị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn tước tự do với mục đích để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng có căn cứ chứng tỏ họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án5.
2) Phụ nữ bị coi là có tội bao gồm: (i) nữ bị cáo bị kết án tử hình (bản án tử hình đối với họ đã có hiệu lực, đang bị tạm giam và trong thời gian chờ thi hành án); (ii) phụ nữ bị kết án tù chung thân, tù có thời hạn hoặc trẻ em gái dưới 18 tuổi bị kết án có tội bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (bản án kết tội đối với họ đã có hiệu lực nhưng chưa có quyết định thi hành án, chưa được chuyển sang cơ sở chấp hành án chính thức); (iii) nữ phạm nhân (đang chấp hành án phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân tại các cơ sở giam giữ); nữ học viên trường giáo dưỡng. Những phụ nữ này đều đã bị Toà kết án bằng một bản án hình sự có hiệu lực pháp luật kèm theo quyết định hình phạt là tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình hoặc quyết định áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Người bị buộc tội hay người có tội đang phải chấp hành biện pháp tước tự do thì đều là con người, vì bị tước tự do mà họ trở nên yếu thế, do đó, họ có những quyền cơ bản của con người cần được nhà nước và mọi chủ thể khác trong xã hội tôn trọng và bảo đảm. Khi những người bị tước tự do này là nữ giới với những đặc điểm tự nhiên của giới tính không thể thay đổi, vốn được hình thành qua quá trình tiến hoá rất lâu dài, thì họ thường yếu đuối, dễ bị tổn thương và yếu thế hơn so với nam giới cùng hoàn cảnh. Vì vậy, các yêu cầu về bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự thực chất không phải là một chính sách đối xử nhân đạo mà là đối xử một cách thật sự công bằng với họ.
Quyền con người theo cách hiểu phổ biến là những nhu cầu lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế6, là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định7. Quyền này được coi như những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tôn trọng. Dựa vào những chuẩn mực này mà mọi thành viên của cộng đồng nhân loại được bảo vệ và có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người - cho dù cá nhân đó là người đang bị tước tự do, đang bị giam giữ, quản lý, giáo dục và giám sát của đội ngũ cán bộ trong môi trường cách ly khỏi xã hội với tư cách là người chấp hành án, bị kết án hay bị can, bị cáo.
Quyền con người của phụ nữ bị tước tự do có thể được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm cả quyền con người phổ quát cộng thêm quyền con người phát sinh một cách tự nhiên do đặc thù giới tính. Tuy nhiên, để phân tích tập trung hơn về những quyền con người của riêng phụ nữ, chúng tôi giới hạn quyền con người của phụ nữ bị tước tự do chỉ bao gồm những quyền cơ bản mà chỉ phụ nữ mới có thể thụ hưởng. Theo đó, quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự Việt Nam chính là bộ phận của quyền con người của người bị tước tự do trong tư pháp hình sự, bao gồm những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có, được pháp luật quy định mà chỉ riêng người có giới tính nữ được hưởng trong thời hạn bị giam giữ, quản lý, giáo dục và giám sát tại một môi trường biệt lập và cách ly khỏi xã hội trên cơ sở một quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự hoặc cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm thi hành án hình sự, bảo đảm thi hành án hình sự hoặc bảo đảm các hoạt động tố tụng hình sự.
Như vậy, từ định nghĩa trên có thể thấy quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự mang những đặc điểm chung sau đây:
Thứ nhất, quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự là một bộ phận hợp thành quyền con người của người bị tước tự do trong tư pháp hình sự. Do chủ thể là phụ nữ chỉ chiếm một số lượng nhất định trong nhóm người bị tước tự do nên quyền con người của phụ nữ bị tước tự do có phạm vi nhỏ hẹp hơn quyền con người của người bị tước tự do trong tư pháp hình sự. Những quyền này chỉ tồn tại khi người bị tước tự do có giới tính nữ.
Thứ hai, quyền này rất dễ bị xâm hại vì chủ thể thụ hưởng quyền thuộc nhóm người yếu thế trong xã hội. Sự yếu thế thể hiện ở hai khía cạnh: một là, chủ thể đang bị cáo buộc phạm tội hoặc đã bị kết án và đang phải chịu sự lên án của Nhà nước và xã hội vì quá khứ tội lỗi của mình. Họ bị cách ly khỏi xã hội, phải đối mặt với cả hệ thống tư pháp hình sự, với đội ngũ cán bộ quản lý, giám sát - những người vốn được trao quyền lực, được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật, được huấn luyện nghiệp vụ và được trang bị vũ trang. Đội ngũ cán bộ này nhân danh Nhà nước để thực thi pháp luật, tuy nhiên với vị thế vốn có của họ thì lạm quyền là một xu hướng rất dễ xảy ra. Vì vậy, quyền con người của những người phụ nữ bị tước tự do thường đối diện trước nguy cơ bị xâm hại. Bên cạnh đó, người bị tước tự do dễ có cảm giác lo lắng, sợ sệt hoặc xấu hổ, tự ti, hơn nữa không phải ai cũng hiểu biết về pháp luật nên có thể nảy sinh tâm lý chấp nhận, chịu đựng sự xâm hại quyền, thậm chí còn không biết rằng quyền của mình đang bị xâm hại; hai là, chủ thể mang giới tính nữ với sự yếu đuối, đặc thù nhạy cảm giới nên dễ bị xâm hại tình dục, dễ bị trầm cảm8.
Thứ ba, quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự có những nội dung rất đặc thù mà chỉ có phụ nữ mới có thể thụ hưởng. Đó là những quyền có được trên cơ sở đặc thù về giới tính liên quan đến sức khoẻ sinh sản của nữ giới. Cơ thể phụ nữ được cấu tạo tự nhiên có các bộ phận để thực hiện chức năng sinh sản nhằm duy trì giống nòi, đây vừa là thiên chức và là nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có của người phụ nữ. Cũng từ chức năng sinh sản mà cơ thể người phụ nữ cũng rất dễ mắc những loại bệnh đặc trưng mà chỉ họ mới có thể mắc, do đó họ có những nhu cầu riêng về theo dõi và chăm sóc sức khoẻ của phụ nữ. Bởi vậy khi Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự sẽ có nghĩa vụ bảo đảm những quyền hết sức tự nhiên này của phụ nữ.
Thứ tư, là bộ phận của quyền con người phổ quát trong tư pháp hình sự, quyền con người của phụ nữ bị tước tự do không những được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người nói chung9 mà còn được khẳng định trong văn bản pháp lý quốc tế quan trọng mà nội dung cốt lõi đề cập tới quyền con người của phụ nữ như Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Bộ Quy tắc của Liên hợp quốc về đối xử với phạm nhân nữ và các biện pháp không giam giữ với can phạm nữ (Bộ Quy tắc Băng‐cốc). Những nguyên tắc này mang tính chất khuyến nghị, bổ sung các chuẩn mực tối thiểu về đối xử với tù nhân (Quy tắc chuẩn mực tối thiểu) và là hướng dẫn quốc tế toàn diện về giải quyết các nhu cầu đặc thù của phụ nữ bị tước tự do và những người bị áp dụng biện pháp không giam giữ.
2. Thực trạng về bảo vệ quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự Việt Nam
2.1. Những kết quả đạt được
Ở Việt Nam, việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do bởi các biện pháp cưỡng chế hình sự hoặc tố tụng hình sự về cơ bản đã đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Các quy định pháp lý tương đối đầy đủ và trở thành những căn cứ quan trọng để thực thi quyền con người của phụ nữ bị tước tự do, cụ thể như sau:
Nhóm quyền bảo đảm phẩm giá và an toàn thân thể được pháp luật Việt Nam quy định khá đầy đủ, thể hiện ở một số khía cạnh như: dù là người đã bị kết án hay đang bị nghi ngờ và cáo buộc phạm tội thì khi bị tước tự do, người phụ nữ sẽ được giam giữ riêng10; khi bị tước tự do, việc cân nhắc để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người phụ nữ đã trở thành nguyên tắc của luật11; người phụ nữ bị tước tự do khi phải chấp hành án phạt tù (phạm nhân nữ) trong quá trình lao động để cải tạo sẽ không phải làm những công việc mà pháp luật về lao động nghiêm cấm sử dụng lao động nữ12; phụ nữ vi phạm kỷ luật ở mức độ nghiêm trọng nhất trong quá trình bị tước tự do có thể phải chịu biện pháp đưa vào buồng kỷ luật nhưng cũng không bị cùm chân13; cấp phát đồ dùng thiết yếu cho những người bị tước tự do có sự chú ý đến nhu cầu khác biệt của phụ nữ xuất phát từ đặc điểm giới tính14 như quần áo lót nữ, băng vệ sinh…
Nhóm quyền liên quan đến chức năng sinh sản và nuôi con nhỏ cũng được quy định tương đối cụ thể: phụ nữ đang có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi theo mẹ vào cơ sở giam giữ được giam ở buồng giam riêng; Phạm nhân nữ có thai nếu không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí nơi giam hợp lý, được khám thai định kỳ hoặc đột xuất, được chăm sóc y tế trong trường hợp cần thiết, được giảm thời gian lao động, được hưởng chế độ ăn, uống bảo đảm sức khỏe (Điều 51 Luật Thi hành án hình sự 2019); phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động (khoản 4 Điều 32 Luật Thi hành án hình sự 2019); phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được giảm thời gian lao động (nếu là phạm nhân) và được bố trí thời gian phù hợp để chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc cho con bú trong thời gian nuôi con bằng sữa mẹ, được cấp phát thực phẩm, thuốc men và đồ dùng cần thiết để chăm sóc trẻ sơ sinh, được bố trí chỗ ở đủ không gian cho cả mẹ và con (3m2), con của họ được thực hiện các thủ tục khai sinh; pháp luật về tạm giữ, tạm giam quy định phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hưởng định mức ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam khác và được ăn tăng thêm 30% định lượng về thịt, cá. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sinh con được thanh toán viện phí và bồi dưỡng bằng hiện vật trị giá tương đương 30 kg gạo tẻ loại trung bình15. Pháp luật về thi hành án phạt tù quy định phạm nhân nữ trong thời gian mang thai, nghỉ sinh con hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ định của y sĩ hoặc bác sĩ và được tăng thêm định lượng về thịt, cá từ 20% đến 30% so với định lượng quy định tại khoản 1 Điều này; được cấp phát các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Phạm nhân nữ sinh con trong trại giam được cấp 07 mét vải thường để làm tã lót16. Cơ sở giam giữ có trách nhiệm trong việc đề nghị đăng ký khai sinh cho đứa trẻ nếu thuộc trường hợp người mẹ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong cơ sở giam giữ17. Có thể thấy, chính sách pháp luật về tư pháp hình sự của Việt Nam khá quan tâm tới việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ, kể cả trong trường hợp buộc phải tước tự do của họ.
Trong thực tiễn thực hiện pháp luật, tại các Trại giam, Trại tạm giam, nhà tạm giữ thuộc Bộ Công an đều tuân thủ tương đối tốt các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của phụ nữ tước tự do. Theo đó, i) Trong mọi trường hợp, phụ nữ đều được giam giữ riêng; các chế độ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt, khám chữa bệnh cơ bản đều đáp ứng theo quy định của pháp luật; ii) Có những trại giam có số lượng trẻ em dưới 36 tháng tuổi theo mẹ vào trong trại giam không nhiều (chỉ khoảng hơn 10 cháu) nhưng vẫn được quan tâm một cách đặc biệt, được bố trí nhà trẻ trong khu vực của phân trại dành cho nữ phạm để các cháu được chăm sóc và vui chơi, thuận lợi cho việc chăm sóc của người mẹ; các cháu cũng được bố trí chỗ nằm, vệ sinh và bảo đảm sức khỏe theo quy định; iii) Thực hiện thường xuyên và hiệu quả việc xét tạm đình chỉ chấp hành án phạt tước tự do, trong đó chủ yếu là đối tượng phụ nữ có thai; iv) Trại giam đều có bố trí buồng hạnh phúc để phạm nhân nữ có thành tích cải tạo tốt được gặp gỡ và sinh hoạt riêng tư với chồng; v) việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người phụ nữ bị tước tự do được quan tâm hơn so với trước đây, nhờ đó Ban giám thị trại giam đã phát hiện và xử lý một số trường hợp có hành vi xâm hại tới quyền con người của người phụ nữ trong quá trình bị giam giữ18.
Những kết quả trên đây có được là nhờ sự nỗ lực của Việt Nam trong việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự; sự thay đổi một cách phù hợp về chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do; sự quan tâm của Nhà nước trong việc chú trọng bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm việc tại các cơ sở giam giữ; sự đầu tư và trang bị các thiết bị khoa học hiện đại trong công tác quản lý, giam giữ; sự tuyên truyền và nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người của phụ nữ bị tước tự do.
2.2. Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những kết quả khả quan trên thì thực tiễn cũng còn tồn tại một số vấn đề đang là trở ngại cho việc thực thi quyền con người của người phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự như: i) Số lượng các quy định về bảo đảm quyền của phụ nữ bị tước tự do tuy đã đáp ứng được những yêu cầu của các cam kết quốc tế song vẫn còn khá mỏng nếu đối chiếu với các quy định mang tính chất khuyến nghị nhằm thúc đẩy quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự. Đặc biệt, quyền bất khả xâm phạm về tình dục và quyền được hỗ trợ, tư vấn về sức khỏe tâm thần, sức khoẻ giới tính hay sức khỏe sinh sản của phụ nữ bị tước tự do, quyền ưu tiên cho phụ nữ bị tước tự do đang có thai hoặc nuôi con nhỏ trong trường hợp áp dụng các hình thức kỷ luật... vẫn chưa được đề cập trực tiếp trong hai đạo luật quan trọng là Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và Luật Thi hành án hình sự năm 2019; ii) Các quy định về biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoàn toàn chưa đề cập tới những học sinh nữ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ mặc dù pháp luật hành chính đã có đề cập; iii) Chế độ cấp phát tư trang còn chưa chú ý tới đặc thù giới tính nữ và khí hậu mà mới xét theo nhu cầu chung. Ví dụ, quần áo, đặc biệt là quần áo lót của phạm nhân nữ tuy phát đủ theo quy định để mặc và thay giặt luân phiên nhưng khí hậu miền Bắc Việt Nam rất khắc nghiệt, khi thì nắng gắt, khi thì nồm ẩm hoặc mưa kéo dài dẫn đến hiện tượng phơi không kịp khô hoặc chất lượng vải chỉ là loại bình thường nên có trường hợp bị rách... gây bất tiện cho người phụ nữ trong sinh hoạt; iv) Chế độ vui chơi giải trí của phạm nhân thường là chế độ chung cho cả nam và nữ mà chưa quan tâm nhiều đến tính phù hợp cũng như nhu cầu của nữ giới; báo chí được cung cấp thường là tờ báo Nhân dân chứ chưa có những tờ báo cung cấp các thông tin mang tính chất tăng cường sự nhận thức và kỹ năng mang đặc thù giới tính như kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe sinh sản; kỹ năng phòng tránh và phát hiện các loại bệnh phụ nữ; v) Chưa có sự cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Lao động của Việt Nam năm 2019 về chế độ lao động đối với phụ nữ mang thai hoặc nuôi con nhỏ...
Những hiện tượng trên đều xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định như: Việt Nam là nước đang phát triển nên việc sử dụng ngân sách đầu tư vào các cơ sở giam giữ hoặc trường giáo dưỡng cũng còn khá hạn chế; hiện tượng tội phạm gia tăng càng gây áp lực cho các cơ sở này; trình độ nhận thức của cán bộ làm việc trong các cơ sở giam giữ còn chưa đồng đều, đặc biệt số lượng cán bộ nữ rất thiếu hụt; các nhà làm luật tuy đã có sự quan tâm đến quyền đặc thù của người bị tước tự do là phụ nữ song sự quan tâm còn chưa được chi tiết và đầy đủ.
3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự
3.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật
Chính sách pháp luật phản ánh thái độ của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự thể hiện qua các quy phạm pháp luật19. Hệ thống các quy phạm pháp luật của Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự hiện nay có thể nói là khá đầy đủ, tuy nhiên số lượng các quy phạm đề cập tới quyền con người của phụ nữ bị tước tự do thì lại không nhiều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới các nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của người phụ nữ bị tước tự do mà đáng lẽ Nhà nước cần tạo điều kiện cho họ được hưởng. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng Nhà nước cần có sự đổi mới về chính sách pháp luật về tư pháp hình sự theo hướng bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người của phụ nữ bị tước tự do, theo đó, hệ thống pháp luật về thi hành các biện pháp tước tự do trong tư pháp hình sự - bao gồm cả pháp luật về thi hành biện pháp tạm giữ, tạm giam; pháp luật về thi hành án phạt tù; và pháp luật về thi hành biện pháp tư pháp hình sự giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi - cần bổ sung một số các quy định nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do như sau:
Một là, bổ sung các quy định về quyền bất khả xâm phạm về tình dục và quyền được hỗ trợ, tư vấn về sức khoẻ tâm thần của phụ nữ bị tước tự do. Phụ nữ là những người mang đặc điểm nhạy cảm giới, yếu đuối, nhạy cảm nên rất dễ bị xâm hại tình dục và dễ rơi vào trạng thái trầm cảm, những nguy cơ này càng dễ xảy ra khi họ bị tước tự do và phải sống trong môi trường cách ly khỏi xã hội. Sự khuyết thiếu các quy định này khiến pháp luật Việt Nam bỏ một khoảng cách khá xa so với những khuyến nghị của Liên hợp quốc trong việc đối xử đối với phụ nữ bị tước tự do, đặc biệt là Bộ quy tắc Bangkok năm 2010.
Hai là, bổ sung các quy định về quyền được hỗ trợ, tư vấn và chăm sóc sức khỏe giới tính hay sức khỏe sinh sản của phụ nữ bị tước tự do. Đặc điểm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do cho thấy, đặc thù của giới tính nữ khiến các chủ thể này thường dễ mắc phải các loại bệnh lý của phụ nữ như bệnh phụ khoa hay các loại bệnh lý khác liên quan chặt chẽ tới chức năng sinh sản của phụ nữ nên họ rất cần được tư vấn, giáo dục về cách tự chăm sóc sức khoẻ giới tính của bản thân. Nếu không được quan tâm và hướng dẫn một cách đặc biệt, bất cứ người phụ nữ nào cũng dễ mắc phải các loại bệnh lý nêu trên, nguy cơ đó càng lớn khi người phụ nữ bị cách ly, hạn chế tiếp xúc, hạn chế tiếp cận thông tin, sinh hoạt trong những điều kiện tối thiểu… Để bảo đảm sức khoẻ giới tính của phụ nữ bị tước tự do, các cơ sở giam giữ hoặc trường giáo dưỡng có thể đặt mua thường kỳ một trong những ấn phẩm liên quan đến phổ biến kiến thức về sức khoẻ cho phụ nữ để họ tăng cường sự hiểu biết về chăm sóc sức khoẻ cho bản thân; hoặc có thể đa dạng hoá hình thức giải trí bằng cách tăng thêm các loại hoạt động thể dục thể thao nhằm rèn luyện sức khoẻ phù hợp với phụ nữ như tập yoga, thiền, thể dục nhịp điệu…
Ba là, pháp luật về thi hành án phạt tù và thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định mỗi năm cấp phát cho phạm nhân trong tù hoặc học sinh trong trường giáo dưỡng 02 bộ quần áo thường và 02 bộ quần áo lót. Tuy nhiên, không giống như nam giới, phụ nữ có nhu cầu giữ gìn vệ sinh hằng ngày, việc thay giặt thường xuyên làm giảm độ bền của quần áo, đặc biệt vào mùa xuân thời tiết ẩm ướt kéo dài kèm theo mưa phùn khiến quần áo, đặc biệt là quần áo lót lâu khô, vừa gây mất vệ sinh khi sử dụng vừa không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng của phụ nữ. Tình trạng này kéo theo các loại bệnh viêm nhiễm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ của họ. Chưa kể độ bền của quần áo không bảo đảm dẫn đến có trường hợp phụ nữ phải mặc quần áo rách, ảnh hưởng đến thể diện của người phụ nữ. Do đó, chúng tôi kiến nghị tăng số lượng quần áo đồng phục khi cấp phát cho người phụ nữ bị tước tự do nhằm khắc phục những tình trạng nêu trên.
Bốn là, bổ sung quy định trong Luật Thi hành án hình sự về việc không áp dụng biện pháp kỷ luật đưa vào buồng cách ly đối với phạm nhân nữ là người đang có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Thời gian của thai kỳ và thời gian ở cữ là khoảng thời gian rất quan trọng đối với người phụ nữ. Trong khoảng thời gian này, phụ nữ rất cần có thời gian để nghỉ ngơi, dưỡng thai hoặc chăm sóc em bé; mặt khác, khoảng thời gian này cũng là khoảng thời gian mà người phụ nữ dễ mất thăng bằng về tâm sinh lý, dễ bị bệnh trầm cảm. Việc áp dụng biện pháp kỷ luật cách ly trong môi trường cách ly hay còn gọi là biện pháp giam tại buồng kỷ luật đối với phạm nhân nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi là không cần thiết. Việc đó có thể gây ra những hậu quả đáng tiếc cho cả người phụ nữ lẫn thai nhi hoặc đứa trẻ sơ sinh đang phụ thuộc rất nhiều vào người mẹ.
Năm là, bổ sung các quy định về chế độ lao động đối với phụ nữ mang thai hoặc nuôi con nhỏ cho phù hợp với Bộ luật Lao động năm 2019. Theo đó, trong quá trình thi hành biện pháp tước tự do, người phụ nữ mang thai không bị yêu cầu làm việc ban đêm, làm thêm giờ nếu họ đang mang thai ở tháng thứ 6 hoặc 7; phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi cũng không bị yêu cầu làm việc ban đêm hoặc làm thêm giờ, trừ trường hợp họ đồng ý20.
Sáu là, bổ sung trong Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự quy định về việc không áp dụng biện pháp tước tự do đối với phụ nữ là người dưới 18 tuổi đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Theo thống kê của Bộ Công an, hiện tượng người dưới 18 tuổi phạm tội đang ngày càng gia tăng, tỷ lệ gây án trên địa bàn cả nước là 5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi21. Mặc dù phụ nữ dưới 18 tuổi chưa được phép kết hôn theo pháp luật Việt Nam về hôn nhân và gia đình, nhưng trên thực tế họ vẫn có thể có thai hoặc đã sinh con. Vì vậy, phụ nữ dưới 18 tuổi phạm tội trong quá trình đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi là hoàn toàn có thể xảy ra trong thực tế mặc dù chưa tìm được con số thống kê cụ thể.
Bên cạnh đó, pháp luật về tư pháp hình sự của Việt Nam hiện hành mặc dù đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, theo đó: Bộ luật Hình sự quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp cần thiết; Bộ luật Tố tụng hình sự quy định chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp cần thật thiết, tuy nhiên người dưới 18 tuổi, bao gồm cả phụ nữ dưới 18 tuổi vẫn có thể bị tước tự do (do bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn hoặc biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, hoặc bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam). Trong số những trẻ em gái này rất có thể sẽ có trường hợp đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Do đó, việc bỏ ngỏ các quy định về bảo vệ quyền của trẻ em gái bị tước tự do trong tình trạng đang làm mẹ hoặc đang mang thai là một điều đáng tiếc và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người của các em. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất bổ sung quy định không áp dụng biện pháp tước tự do đối với phụ nữ là người dưới 18 tuổi đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi vì các lý do sau: i) Phụ nữ ở độ tuổi này rất ít kinh nghiệm để làm mẹ hoặc làm thai phụ, rất cần nhận được sự động viên, giúp đỡ từ gia đình và người thân; ii) Phụ nữ ở độ tuổi này, chưa phát triển toàn diện về tâm sinh lý, vẫn còn bồng bột, cộng thêm sự thay đổi lớn trong cơ thể do thai nghén hoặc quá trình sinh nở hoặc nuôi con nhỏ mang lại nên càng dễ đưa ra những quyết định tiêu cực, dễ mắc bệnh trầm cảm; iii) Việc tước tự do của phụ nữ dưới 18 tuổi đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ là không bảo đảm tính nhân đạo, dễ gây ra những hậu quả đáng tiếc cho cả mẹ và con hoặc thai nhi.
3.2. Một số kiến nghị khác
Bên cạnh hoàn thiện chính sách pháp luật, xin đề xuất một số giải pháp khác nhằm tăng cường hiệu quả bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, nhu cầu làm mẹ là loại quyền con người cơ bản, tự nhiên và vốn có của bất cứ phụ nữ nào trên trái đất này, vì thế Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền đó nếu điều này không ảnh hưởng tới mục đích của việc áp dụng các biện pháp tước tự do đối với họ. Chẳng hạn, pháp luật Dân sự Việt Nam đã hợp pháp hoá việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản của Việt Nam cũng hoàn toàn có thể thực hiện điều đó. Như vậy, trong trường hợp gia đình các phạm nhân nữ (đặc biệt là những phạm nhân phải chấp hành án với thời hạn dài) mà có đủ điều kiện về kinh tế thì việc cho phép phạm nhân nữ được sử dụng dịch vụ mang thai hộ cũng không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả và mục đích của việc thi hành án phạt tù đối với họ mà lại bảo đảm rất tốt quyền làm mẹ cho họ. Tương tự như vậy đối với việc xem xét khả năng cho phép người phụ nữ sử dụng dịch vụ lưu trữ tế bào trứng trong quá trình đang chấp hành án phạt tù.
Thứ hai, sự quá tải và xuống cấp tại các cơ sở giam giữ hoặc trường giáo dưỡng đòi hỏi Nhà nước cần tăng cường đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cho những nơi này. Bên cạnh đó, tăng cường ứng dụng các thiết bị khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại như gắn chip điện tử để quản lý tại gia, tại cộng đồng nhằm thay thế một phần cho việc áp dụng các biện pháp tước tự do sẽ vừa đạt được mục đích giám sát, giáo dục vừa giảm tải áp lực cho các cơ sở giam giữ, đồng thời lại bảo đảm rất tốt quyền con người của phụ nữ. Đặc biệt, khi kiến nghị không áp dụng biện pháp tước tự do đối với phụ nữ là người dưới 18 tuổi đang mang thai hoặc nuôi còn dưới 36 tháng tuổi được Nhà nước chấp nhận và hiện thực hoá thì phương pháp gắn chip điện tử để quản lý, giám sát và giáo dục tại gia đình, tại cộng đồng là rất khả thi và hiệu quả.
Thứ ba, cho phép xã hội hoá nhà tù hoặc trường giáo dưỡng với điều kiện đáp ứng đầy đủ yêu cầu của Nhà nước về quản lý, giáo dục và cải tạo cũng là một kinh nghiệm đáng học hỏi từ một số nước phát triển trên thế giới. Cách làm này một mặt bảo đảm tốt hơn quyền con người của phụ nữ, mặt khác giảm tình trạng quá tải tại các nhà tù và trường giáo dưỡng, đồng thời tiết kiệm được chi phí từ ngân sách dành cho các cơ sở đó.
Thứ tư, trình độ nhận thức, thái độ, kỹ năng nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ thi hành các biện pháp tước tự do là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả bảo đảm quyền của phụ nữ bị tước tự do. Việc tăng cường chất lượng của đội ngũ cán bộ này bằng cách tổ chức các khoá học bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho họ sẽ góp phần thúc đẩy quyền của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự. Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích tuyển dụng thêm cán bộ nữ tham gia những công việc liên quan đến quản lý, giám sát, giáo dục người phụ nữ bị tước tự do cũng là hoạt động cần thiết để bảo đảm tốt hơn các quyền con người của họ, bởi lẽ cán bộ nữ trong quá trình thực thi nhiệm vụ sẽ dễ thông cảm, dễ nắm bắt tâm lý người phụ nữ đang bị tước tự do hơn.
Thứ năm, việc thành lập một cơ quan chuyên trách độc lập với hệ thống các cơ quan tư pháp hình sự, với bộ máy tổ chức thi hành án và trường giáo dưỡng, để thực hiện chức năng giám sát các hoạt động thi hành biện pháp tước tự do là rất cần thiết cho việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do. Cơ quan giám sát chuyên trách này vừa độc lập vừa hoạt động thường xuyên và không chỉ bao gồm những thành viên là đại biểu Quốc hội chuyên trách mà có cả những thành viên thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tốt nhất. Bên cạnh chức năng giám sát, cơ quan này có thể thực hiện cả nhiệm vụ làm đầu mối trực tiếp tiếp nhận những khiếu nại, tố cáo liên quan đến những vi phạm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự. Việc thu gọn về một đầu mối tiếp nhận đơn thư khiếu nại sẽ khiến các nạn nhân bị xâm hại quyền dễ dàng tiếp cận và được hướng dẫn thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo một cách đúng trình tự, tạo điều kiện để các chủ thể có nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể giải quyết nhanh gọn đối với từng vụ việc.
Thứ sáu, Nhà nước cần có quyết tâm trong việc xử lý nghiêm minh và triệt để những trường hợp vi phạm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do, đặc biệt xử lý trách nhiệm liên đới đối với những trường hợp do nể nang, bao che người có hành vi sai phạm dẫn tới quyền con người của phụ nữ bị tước tự do bị xâm hại hoặc có hành vi cản trở việc thực thi quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự.
4. Kết luận
Nói tóm lại, quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đáng kể. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận một thực tế rằng Nhà nước cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc bảo đảm quyền con người của nhóm người này. Trách nhiệm bảo đảm quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự thuộc phần lớn thuộc về Nhà nước. Mặc dù chúng ta đều hiểu, về nguyên tắc thì tất cả mọi chủ thể trong xã hội đều có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các thành viên khác trong xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các chủ thể cũng tuân thủ một cách tự giác và tuyệt đối nguyên tắc này. Chính vì thế, chỉ có Nhà nước với công cụ pháp luật, bộ máy cưỡng chế và các chính sách đa dạng trong tay mới có thể điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự nhất định. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, quyền của người của phụ nữ bị tước tự do có đặc điểm rất dễ bị xâm hại. Do đó, Nhà nước vừa là chủ thể thiết lập ra các biện pháp tước tự do, vừa tổ chức thi hành các biện pháp đó nhằm bảo đảm quyền con người nói chung, đồng thời cũng vừa là chủ thể sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế để chống lại sự xâm hại hoặc loại bỏ những rào chắn cản trở sự thực thi quyền con người của phụ nữ bị tước tự do trong tư pháp hình sự.
• TS. Nguyễn Thị Lan* - TS Trần Thu Hạnh**
(*) Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
(**) Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.