Giáo dục quyền con người là một quá trình suốt đời, liên quan đến mọi lứa tuổi, mọi cấp học, ngành học và trong nhiều hình thức giáo dục, đào tạo và học tập. Tuyên ngôn nhấn mạnh rằng, giáo dục và đào tạo về quyền con người bao gồm cả dạy nghề.
Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân" chỉ rõ mục tiêu đưa nội dung quyền con người vào các trường dạy nghề nhằm cung cấp cho người học kiến thức cơ bản giúp người học nhận thức được giá trị cao quý của quyền con người; củng cố niềm tin vào đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người; hình thành thái độ tôn trọng, bảo đảm, tích cực tham gia thúc đẩy quyền con người; bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác trong xã hội.
1. Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục quyền con người (QCN) trong giáo dục nghề nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp
Theo Điều 4 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn. Đây cũng là mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu cụ thể đối với từng trình độ của giáo dục nghề nghiệp được quy định: a) Đào tạo trình độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề; b) Đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm; c) Đào tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc.
Điều 5 Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm: a) Trung tâm giáo dục nghề nghiệp; b) Trường trung cấp; c) Trường cao đẳng. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức theo các loại hình: 1) Cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; 2) Cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; 3) Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm cơ sở giáo dục nghề nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Lồng ghép giáo dục QCN trong giáo dục nghề nghiệp
Lồng ghép giáo dục QCN trong giáo dục nghề nghiệp là phối - kết hợp (lồng ghép) hay liên kết - tổng hợp (tích hợp) kiến thức, phương pháp môn học theo quy trình: "giáo dục về - thông qua - vì QCN ". Theo đó, giáo dục "về QCN" là cung cấp các kiến thức về các tiêu chuẩn và nguyên tắc, các giá trị cơ bản về QCN; giáo dục "thông qua QCN" là tiếp cận năng lực người học, trao quyền học tập cho họ gắn với việc thực hiện nghĩa vụ dẫn dắt, hỗ trợ của người thày; và giáo dục "vì QCN "là khuyến khích người học vận dụng, phát huy kiến thức quyền con người trong việc thực hiện các quyền của mình, tôn trọng quyền của người khác và bảo vệ quyền con người. Từ đó tạo cho trách nhiệm giảng dạy của người thày cao hơn hơn và quyền học tập của học viên, sinh viên hiệu quả hơn.
Theo nghĩa rộng nhất, lồng ghép QCN trong giáo dục nghề nghiệp là sự kết nối - liên kết giáo dục QCN với giáo dục các môn học, kể cả với các môn khoa học công nghệ vốn có rất ít nội dung trực tiếp về QCN; kết nối - liên kết giữa nội dung các lớp học cùng trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng; kết nối - liên kết theo hướng lũy tiến giữa các bậc học; đặc biệt kết nối - liên kết giữa học tập trên lớp với hoạt động thực hành, thực nghiệm, trải nghiệm nghề ngiệp trong thực tế.
Giáo dục trên cơ sở bảo đảm tính tư tưởng, khoa học, liên thông và thực tiễn của việc đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục nghề nghiệp, phù hợp với từng trình độ đào tạo (nghề); bảo đảm thực hiện việc đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục nghề nghiệp một cách đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, cập nhật và phù hợp với xu hướng chung của khu vực và thế giới.
Ở mức độ thấp, việc lồng ghép những nội dung có liên quan trong quá trình dạy học một bài học hay một môn học như: lồng ghép vào giáo dục tính hợp pháp của sản phẩm được làm ra, giáo dục ý thức trách nhiệm, phẩm chất người thợ, giáo dục đạo đức nghề nghiệp... Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lý các nội dung kiến thức trong mối liên kết, tích hợp với nhau và trong nhau, nhằm bảo đảm cho học viên, sinh viên vận dụng tổng hợp được các kiến thức đó một cách hợp lý và vừa sức để giải quyết các vấn đề thực tiễn thường có tính tích hợp - tổng hợp trong ứng xử giữa người thợ với bên ký kết hợp đồng giao việc, kiểm tra, giám sát, nghiệm thu, quyết toán sản phẩm nghề nghiệp. Qua đó phát triển được những phẩm chất, năng lực cần thiết, đồng thời tránh việc học viên, sinh viên phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các bài học, môn học gần nhau.
2. Nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người trong giáo dục nghề nghiệp
Cách thức lồng ghép giáo dục QCN trong giáo dục nghề nghiệp
- Về nội dung giáo dục[1]
a/ Đối với cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên: Nội dung cơ bản của quyền con người, quyền công dân; Quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước Việt Nam về quyền con người, đặc biệt là quyền con người trong học tập và đào tạo; Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; Các văn kiện của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền lao động.
b/ Đối với học viên: Nội dung cơ bản của quyền lao động - việc làm, an sinh xã hội, các cơ chế bảo vệ quyền con người; Các cơ chế hoạt động nghề nghiệp; phương pháp và chương trình hoạt động nghề; Quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
- Về chương trình giáo dục QCN
a/ Đối với cán bộ quản lý, giảng viên, giáo viên: Cần được cung cấp tài liệu, bồi dưỡng kiến thức về quyền con người cho cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên.
b/ Đối với học viên:
- Học viên hệ Sơ cấp: Chương trình lồng ghép về quyền con người vào nội dung đào tạo để người học vừa có năng lực thực hiện được các công việc đơn giản của một nghề, vừa nhận thức về quyền và trách nhiệm của bản thân với việc tôn trọng quyền của người khác, thúc đẩy sự phát triển của bản thân phấn đấu trở thành thành viên có trách nhiệm trong xã hội.
- Học viên hệ Trung cấp: Chương trình lồng ghép quyền con người vào nội dung đào tạo để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm. Bên cạnh đó, người học cần được bổ sung kiến thức về quyền của người lao động, quyền của người sử dụng lao động, quyền của người tiêu dùng…
- Học viên hệ Cao đẳng: để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc. Đồng thời sinh viên cần được trang bị kiến thức về an toàn vệ sinh lao động, quyền và nghĩa vụ của người lao động; quyền, nghĩa vụ của người sử dụng lao động; một số kiến thức về quyền con người trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Lồng ghép quyền con người vào chương trình giúp cho người học có ý thức theo đuổi việc hiện thực hóa các quyền con người, thúc đẩy sự khoan dung, bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Đối với các trường cao đẳng, các nội dung quyền con người đối với giáo viên được tích hợp, lồng ghép vào môn học pháp luật hoặc pháp luật đại cương, bao gồm cả kiểm tra kiến thức cho tất cả các ngành đào tạo.
Các nội dung quyền con người đối với học viê có thể được thiết kế thành một bài riêng, hoặc lồng ghép vào các môn học chuyên ngành có liên quan. Chẳng hạn trong việc thực hành cần bảo đảm các biện pháp về thời gian, không gian an toàn vệ sinh lao động, sản phầm làm ra phải bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật, không phương hại đến con người, môi trường…
Ngoài chương trình chính khoá, tất cả các trường cao đẳng, trung cấp chủ động trong việc lựa chọn đưa nội dung về quyền con người vào các hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng học viên thông qua một số hoạt động ngoại khóa sau: Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về quyền con người; Lồng ghép nội dung về quyền con người vào các hoạt động văn hóa.
- Về giáo dục quyền và nghĩa vụ của học viên: Giáo dục người học năng lực tìm hiểu, nắm bắt và có thể thực hành một số quyền chủ yếu gắn trực tiếp với nhân thân và phù hợp với độ tuổi người học nghề hay học trung học chuyên nghiệp, cao đẳng nghề ở tuổi vị thành niên hay thanh niên, như: quyền được sống còn, được chăm sóc sức khỏe và nuôi dưỡng, được vui chơi, giải trí, được bảo vệ, được tham gia và phát triển trong lĩnh vực giáo dục phù hợp "Luật dạy nghề năm 2014".
Trên cơ sở đó có thể mở rộng tìm hiểu, nắm bắt đúng mức và hợp lý các nhóm quyền có tính nền tảng của người chưa thành niên hoặc thanh niên là: (i) Quyền được khai sinh và có quốc tịch; (ii) Quyền được sống chung với cha, mẹ; (iii) Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ; (iv) Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi; (v) Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; (vi) Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu; (vii) Quyền vui chơi, giải trí; (viii) Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc; (ix) Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục; (x) Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy; (xi) Quyền được bảo đảm an sinh xã hội; (xiii) Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp; (xiv) Quyền của trẻ em khuyết tật. Đồng thời cũng coi trọng giáo dục đúng mức và hợp lý các nghĩa vụ cơ bản gồm: với gia đình, với nhà trường, với cộng đồng, với quê hương, đất nước và với bản thân.
Áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người
Đây phương pháp được khuyến khích thực hiện, tiếp cận năng lực người học, trao quyền học tập cho họ gắn với việc thực hiện nghĩa vụ dẫn dắt, hỗ trợ của người giáo viên, giảng viên (GV). Phương pháp này hướng sự chú ý đến cả mục tiêu và quá trình thực hiện, bao gồm các nguyên tắc "hợp pháp; minh bạch và trách nhiệm giải trình; trao quyền; thamgia; bình đẳng, không phân biệt đối xử và chú ý đến các nhóm dễbị tổn thương".
Trước đây, với chương trình giáo dục pháp luật do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (BLĐTBXH) ban hành theo Quyết định 1137/2003/QĐ-LĐTBXH, chủ yếu việc giảng dạy pháp luật chính khóa cho học viên là lý thuyết, phương pháp giảng dạy chính của GV là phương pháp thuyết giảng (truyền thống) nhằm chuyển tải thông tin, tri thức từ người dạy sang người học, mà ít có thời gian để đưa các tình huống kỹ năng nghề nghiệp thực tế vào thời gian học chính khóa để học viên được thực hành.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của phương tiện kỹ thuật dạy học thì cách thức, phương pháp giáo dục trong chương trình giáo dục chính khóa tại các trường đào tạo nghề đã có những thay đổi. Chẳng hạn công cụ hỗ trợ giảng dạy thay vì phấn, bảng, giáo án, ngày nay các giảng viên còn có thêm máy chiếu, máy tính, internet hỗ trợ. Chính vì thế bài giảng trên lớp của các giảng viên trở nên thu hút hơn đối với người học do có nhiều hình ảnh, clip minh họa cho mỗi bài giảng. Phương pháp giảng dạy chuyển dần từ diễn giảng, truyền thụ một chiều sang phát huy tính tích cực của học viên, sinh viên bằng cách GV sử dụng các phương pháp đặt vấn đề, thảo luận, làm việc nhóm. v.v…. Nhiều GV đã đưa ra những tình huống cụ thể và sáng tạo những phương pháp mới nhằm tăng cường tính tích cực, sáng tạo của học viên, sinh viên trong học tập; từ đó tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị, pháp luật.
Gắn liền với việc đổi mới phương pháp giảng dạy của GV là phương pháp tiếp thu kiến thức học tập của học viên, sinh viên. Trước đây đào tạo theo học chế niên chế, phương pháp giảng dạy của giảng viên là thuyết giảng còn việc học tập của học viên, sinh viên theo cách tiếp thu và học thuộc lòng kiến thức. Còn từ khi Bộ LĐTBXH, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp thay đổi phương thức dạy nghề từ đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ, modul phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, thì phương pháp học tập của học viên, sinh viên cũng thay đổi. Với chương trình đào tạo theo tín chỉ, mỗi học, viên sinh viên cần hiểu rõ yếu tố tự học, tự nghiên cứu là quan trọng nhất. Dung lượng kiến thức ở từng môn học hầu như không đổi, mặc dù chuyển từ đào tạo niên chế sang tín chỉ, song thời lượng chương trình giảng dạy trên lớp sẽ bị rút ngắn để học viên, sinh viên có thời gian tự học, tự nghiên cứu tài liệu. Do đặc thù của giáo dục nghề nghiệp, thời lượng lên lớp bị hạn chế nên giáo viên không có nhiều quỹ thời gian trên lớp để tiếp xúc, hướng dẫn, trao đổi, giải đáp những vướng mắc khi học viên, sinh viên gặp phải cho nên đây cũng là trở ngại trong giáo dục theo phương pháp mới - phương pháp giáo dục dựa trên quyền.
Giáo dục theo cách tiếp cận dựa trên quyền xuất phát từ người học, "lấy người học làm trung tâm"để tiếp cận năng lực người học và trao quyền học tập cho họ hay đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học tập nhằm phát triển người học toàn diện. Người học biết được quyền của mình, quyền của người khác và biết được cách thức bảo vệ chúng. Người học được chủ động, tự nguyện tham gia với sự dẫn dắt, hỗ trợ của giáo viên. Người học không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của GV mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn bảo đảm quyền con người cụ thể và sinh động trong quá trình học tập và thực hành nghề.
Đói với GV cũng thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước học sinh, sinh viên; có nội dung, phương pháp giảng dạy thích hợp, đồng thời thực hiện trách nhiệm giải trình trong những trường hợp nhất định. Đối với người học, phải tập trung cao độ trong học tập, chủ động tìm tòi khám phá nội dung học tập, chủ động giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của bản thân, đề xuất các ý tưởng sáng tạo và tự nguyện trình bày, diễn đạt các ý kiến của mình mà quan trọng hơn hết, người học biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống nghề nghiệp thể hiện văn hóa quyền con người.
Như vậy, phương pháp giáo dục nghề nghiệp theo hướng tiếp cận dựa trên quyền giúp người học dễ nắm bắt quyền của mình và quyền của người khác, thúc đẩy sự tôn trọng, bảo vệ con người, góp phần tạo ra được sản phẩm có ích. Chỉ trên cơ sở tham gia, trải nghiệm, tự học, tự khám phá, người học mới có thể thực sự lĩnh hội được tri thức, nhớ kiến thức lâu dài; từ đó hình thành tư duy sáng tạo, sự tự tin và ngày càng hoàn thiện nhân cách vốn là mục tiêu của giáo dục toàn diện, trong đó bao hàm được nội dung giáo dục quyền con người.
PGS,TS Hoàng Hùng Hải
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tài liệu tham khảo
1/ Quốc hội, Luật Việc làm, luật số: 38/2013/QH13, năm 2013.
2/ Quốc hội, Luật Giáo dục nghề nghiệp, luật số: 74/2014/QH13, năm 2014.
3/ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2017), Công văn số 1234/LĐTBXH-TCGDNN ngày 03/04/2017 về việc phê duyệt Đề án "Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025".
4/ Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng hợp "Nghiên cứu nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người trong giáo dục phổ thông", Hà Nội, 2019.
5/ Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng hợp "Nghiên cứu Đề án đưa nội dung nhân quyền vào chương trình giáo dục của các tổ chức chính trị, xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam hiện nay", Hà Nội, 2017.
6/ Đỗ Thanh Vận (2018), Một số hướng triển khai dạy học theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, Tạp chí Giáo dục, số 423, tr 55-57.
[1] Phụ lục (Ban hành kèm theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 5 tháng 9 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ)