I. GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

1.1. Đối tượng giáo dục

Trường Đại học được thành lập ngày 25/4/2013 trên cơ sở kế thừa nền tảng của trường Trung cấp, Cao đẳng Kiểm sát đã được thành lập từ năm 1960. Trường có nhiệm vụ đào tạo trình độ đại học, sau đại học ngành luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Kiểm sát kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng về thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc khác. Từ năm 2013 đến năm 2021, Trường đã đào tạo được: 08 khóa đại học chính quy với hơn 2.570 sinh viên; 02 khóa sinh viên văn bằng 2 ngành luật với hơn 130 sinh viên; 03 khóa thạc sỹ với hơn 150 học viên. Ngoài ra, Trường đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho hàng nghìn cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Những sinh viên, học viên cao học, cán bộ, Kiểm sát viên đã ra trường được trang bị đầy đủ, vững vàng kiến thức pháp luật, kinh nghiệm, kỹ năng giải quyết các vụ án, vụ việc trên thực tế, góp phần hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát, đặc biệt trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ Nhà nước, chế độ, quyền con người, quyền công dân. Đối tượng giáo dục quyền con người của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội gồm 2 nhóm: Thứ nhất, các cán bộ, giảng viên của Nhà trường; thứ hai, sinh viên, học viên (bao gồm học viên cao học, cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên của ngành Kiểm sát) của Nhà trường. Đối với nhóm thứ nhất, giáo dục quyền con người cho cán bộ, giảng viên của trường nhằm mục đích nâng cao kiến thức và kinh nghiệm, kỹ năng truyền đạt về quyền con người để họ thực hiện tốt việc giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học. Đối với nhóm thứ hai, giáo dục quyền con người nhằm truyền đạt kiến thức, hiểu biết về quyền con người cũng như kinh nghiệm, kỹ năng thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của ngành Kiểm sát, qua đó bảo vệ quyền con người trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.

1.2. Nội dung giáo dục quyền con người tại trường Đại học kiểm sát Hà Nội

Với đặc thù của Trường Đại học Kiểm sát là đào tạo cử nhân luật chuyên ngành Kiểm sát với mục đích cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Kiểm sát, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiểm sát viên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nên nội dung giáo dục quyền con người chủ yếu lồng ghép, thông qua việc giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giải quyết các vụ án hình sự, kiểm sát các vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc khác[1]. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định: "1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất".

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình để bảo vệ Nhà nước, chế độ, Nhân dân khỏi sự xâm hại của tội phạm, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng như người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, bị hại cũng như những người tham gia tố tụng khác không bị xâm hại một cách trái pháp luật. Đặc biệt bảo đảm cho quyền con người, quyền công dân của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự không bị xâm hại bởi những quyết định, hành vi trái pháp luật từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật; mọi vi phạm pháp luật trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng như trong giáo trình, tài liệu của mình, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội dành một phần đáng kể cho đào tạo, bồi dưỡng sinh viên, học viên kiến thức kinh nghiệm, kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giải quyết vụ án hình sự. Điều này rất phù hợp với mục đích bảo vệ quyền con người của quốc tế và của Nhà nước Việt Nam, bởi vì, quyền con người chủ yếu bị xâm hại bởi các hành vi phạm tội, đồng thời cũng có thể bị xâm hại từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, thi hành án. Khi Viện kiểm sát nhân dân thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, tức là bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được chấp hành đúng quy định của pháp luật, cũng đồng thời bảo đảm quyền con người của những người tham gia tố tụng không bị xâm hại trái pháp luật. Để bảo đảm việc giáo dục quyền con người có chất lượng cao, ngoài những phương pháp giáo dục, đào tạo chung, như phương pháp thuyết trình; phương pháp trao đổi, thảo luận; thuyết trình kết hợp với trao đổi; phương pháp thực hành các kỹ năng liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền con người, Trường ĐHKSHN còn có những phương pháp đặc thù như nghiên cứu hồ sơ, diễn án, kiến tập, thực tập, thực tế, báo cáo án....

Quyền con người của người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo) gắn liền với những quyền cơ bản của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v, nhưng những quyền đó bị hạn chế một phần do hành vi phạm tội của mình. Quyền con người của họ được thể hiện trong tố tụng hình sự dưới góc độ quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, được quy định tại các điều: Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 61 và một số điều luật khác của BLTTHS[2]. Do vậy khi một người trở thành người bị buộc tội trong vụ án hình sự, thì họ bị hạn chế một phần quyền con người như bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, bị xử phạt tù theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhưng không vì thế mà quyền con người của họ bị tước bỏ hoàn toàn hoặc bị xâm phạm một cách trái pháp luật. Căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự bao gồm những quyền cơ bản sau đây:

- Quyền được biết lý do mình bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;

Khi các cơ quan tiến hành tố tụng bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người bị buộc tội thì phải có lệnh, quyết định và giải thích cho họ biết rõ lý do họ bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội gì. Đây là một trong những quyền đầu tiên của người bị buộc tội.

- Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại BLTTHS;

Khi bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người bị buộc tội thì người tiến hành tố tụng phải giải thích cho người bị buộc tội biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở biết rõ quyền và nghĩa vụ của minh, người bị buộc tội sẽ thực hiện những hoạt động hợp pháp để bảo vệ, bào chữa cho mình, như tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, không đưa ra lời khai chống lại chính mình.

- Quyền được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến việc buộc tội: quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án;

Khi áp dụng các biện pháp tố tụng, người tiến hành tố tụng phải giao các quyết định tố tụng có liên quan cho người bị buộc tội để họ biết rõ sự buộc tội chính thức của Nhà nước đối với mình. Việc quy định quyền được nhận các quyết định tố tụng sẽ loại trừ việc bắt, tạm giữ, tạm giam... tùy tiện từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đồng thời là căn cứ, cơ sở để người bị buộc tội có thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp bị oan, sai.

- Quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

Người bị buộc tội có quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội nhằm bào chữa, bảo vệ cho mình khỏi sự buộc tội không có căn cứ, không đúng pháp luật từ phía cơ quan Nhà nước hoặc người bị hại. Đồng thời, là căn cứ, cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các chế tài hình sự khác nhẹ hơn (giảm mức hình phạt) trong trường hợp họ tự nguyện khai báo, lời khai của người bị buộc tội thể hiện thái độ ăn năn, hối cải vì hành vi phạm tội của mình hoặc giúp nhanh chóng làm rõ tội phạm, hành vi phạm tội của người khác. Trong trường hợp người bị buộc tội không đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc không nhận mình có tội thì họ cũng không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi đó.

- Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu để chứng minh mình vô tội;

Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của người bị buộc tội. Mặc dù BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, nhưng quy định trên cho phép người bị buộc tội có quyền tham gia vào việc chứng minh sự vô tội của mình. Thông qua việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, người bị buộc tội có thể chứng minh sự vô tội của mình, chống lại sự buộc tội, kết tội của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi người bị buộc tội đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tiếp nhận, xem xét, đánh giá để xác định có hay không sự vô tội của người bị buộc tội, hoặc phải thực hiện yêu cầu của người bị buộc tội để xác định sự thật của vụ án. Đồng thời, người bị buộc tội có quyền được trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan mà cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá để kết luận về tính có căn cứ, tính hợp pháp của các tài liệu, đồ vật, chứng cứ.

- Quyền được tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa cho mình. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bảo đảm cho việc người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, không được có hành vi cản trở họ thực hiện những quyền này ngay từ khi họ bị bắt, bị tạm giữ và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trong trường hợp người bị buộc tội là người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần, người dưới 18 tuổi, hoặc bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, nếu người bị buộc tội không mời người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ. Quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền cơ bản, quan trọng, giúp cho người bị buộc tội chống lại sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giúp họ có thể thoát khỏi hoặc được giảm nhẹ hình phạt. Quyền này cũng thể hiện tính công bằng trong xét xử khi các bên buộc tội, bào chữa đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, lập luận để bảo vệ quan điểm của mình.

- Quyền được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;

Quyền trên cho phép người bị buộc tội trực tiếp hoặc thông qua người bào chữa tiếp cận với hồ sơ vụ án, tìm kiếm chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để phục vụ cho việc bào chữa, bảo vệ mình. Khi tiếp cận hồ sơ vụ án, người bị buộc tội được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự cũng giới hạn việc tiếp cận hồ sơ, chỉ cho phép khi đã kết thúc điều tra vụ án và trong trường hợp có yêu cầu từ phía người bị buộc tội.

- Quyền được tham gia phiên tòa, được kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

Phiên tòa xét xử vụ án hình sự giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Số phận của vụ án sẽ được quyết định tại phiên tòa. Do vậy, việc bị cáo được quyền tham gia phiên tòa công khai để thực hiện các hoạt động tố tụng như được trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật, chứng cứ, được hỏi người tham gia tố tụng khác, được tranh luận với Kiểm sát viên, trình bày lời bào chữa, được nói lời sau cùng sẽ bảo đảm cho việc bảo vệ, gỡ tội được thực hiện một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Kết quả của những hoạt động trên là một trong những căn cứ, cơ sở để Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết đúng đắn. Trường hợp cho rằng, bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không đúng đắn, bị cáo có quyền kháng cáo để đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi có kháng cáo của bị cáo, bị hại, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa để xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Trường hợp cho rằng, quyết định của bản án phúc thẩm có vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bị cáo có quyền gửi đơn yêu cầu Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

- Quyền được khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

Người bị buộc tội có quyền khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi cho rằng, những quyết định, hành vi tố tụng đó đã xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo và trả lời bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người bị buộc tội. Quyền khiếu nại, tố cáo của người bị buộc tội là một trong những thiết chế hữu hiệu để phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

Để bảo đảm cho quyền con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự được bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự bằng việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn:

- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can; phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc thay đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh, yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;

- Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; thời hạn điều tra; gia hạn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến vi phạm, xử lý Điều tra viên, cán bộ điều tra có vi phạm pháp luật;

- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong các trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

- Quyết định truy tố, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can;

- Tham gia phiên tòa, công bố cáo trạng, xét hỏi, luận tội, tranh luận; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án;

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các quyết định, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tham gia tố tụng;

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm chống oan sai và bỏ lọt tội phạm.

Để bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được đúng quy định của pháp luật, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội giáo dục, đào tạo cho sinh viên, học viên, cán bộ, Kiểm sát viên những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng cơ bản và chuyên sâu trong thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Cụ thể:

- Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án

Nghiên cứu hồ sơ vụ án là nhiệm vụ quan trọng của KSV khi được phân công THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án trong các giai đoạn tố tụng để xác định đầy đủ chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, nắm chắc nội dung vụ án, các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm vững nội dung vụ án sẽ bảo đảm cho KSV thực hiện tốt nhiệm vụ THQCT và KS hoạt động tư pháp. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án đòi hỏi KSV phải nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu độc lập như đọc, ghi chép, phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá và đưa ra kết luận…

Khi nghiên cứu hồ sơ, KSV nghiên cứu hai vấn đề cơ bản, đó là nghiên cứu tính có căn cứ và nghiên cứu tính hợp pháp của chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Khi nghiên cứu để xác định tính có căn cứ của quyết định tố tụng như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam...cũng là để xác định tính có căn cứ của các chứng cứ buộc tội, KSV xác định rõ: có sự việc phạm tội, có hành vi phạm tội, hành vi cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật, lỗi của người phạm tội; hậu quả của tội phạm (xác định rõ bị hại, mức độ thiệt hại...); các tình tiết khác có liên quan đến việc buộc tội. Những chứng cứ trong vụ án phải đầy đủ, xác đáng chứng minh việc phạm tội của bị can, bị cáo và được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

- Khi nghiên cứu để xác định tính hợp pháp của quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng, các tài liệu, chứng cứ, KSV kiểm tra các văn bản tố tụng, thủ tục giao nhận hồ sơ vụ án và vật chứng của vụ án, bản kê tài liệu. KSV kiểm tra các thủ tục tố tụng nhằm đảm bảo các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng đó phải được thực hiện đúng quy định của BLTTHS năm 2015 về hình thức, nội dung quyết định, thẩm quyền ban hành, thời hạn ban hành, chữ ký, con dấu của cơ quan ban hành, đối tượng áp dụng, việc giao nhận các quyết định. Quyết định khởi tố bị can của CQĐT phải theo mẫu thống nhất của Bộ Công an, nội dung quyết định phải ghi đầy đủ các thông tin: thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, chỗ ở, nghề nghiệp của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS năm 2015; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm. Trường hợp bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội danh và điều, khoản của BLHS năm 2015 được áp dụng. Quyết định phải có chữ ký của Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng CQĐT, được đóng dấu của CQĐT đã ra quyết định. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can.

Các hoạt động tố tụng phải do Điều tra viên tiến hành hoặc chủ trì; thời hạn tố tụng cũng như trình tự, thủ tục gia hạn, phê chuẩn thay đổi, hủy bỏ quyết định, việc giao, nhận quyết định, văn bản phải đúng quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, KSV tổng hợp kết quả nghiên cứu, so sánh, đánh giá các chứng cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xác định, kết luận về tính có căn cứ, tính hợp pháp của các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng cũng như tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án.

Nếu qua quá trình nghiên cứu, kiểm tra, phát hiện thấy có thiếu sót, vi phạm thì KSV phải có biện pháp giải quyết kịp thời như yêu cầu CQĐT, ĐTV khắc phục, bổ sung hoặc trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thì đề xuất lãnh đạo Viện không phê chuẩn, thay đổi, hủy bỏ các quyết định của CQĐT hoặc kháng nghị đối với các bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp có dấu hiệu của tội phạm trong những vi phạm thì khởi tố vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Kỹ năng đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh, yêu cầu điều tra

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 159, Điều 165 BLTTHS thì khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, điều tra, trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện, đề ra yêu cầu điều tra. Kiểm sát viên chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh để kiểm tra tính xác thực của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được qui định tại các Điều 85, 441 BLTTHS, để xác định nội dung tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có phải là tội phạm hay không để có biện pháp xử lý kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu kiểm tra, xác minh có thể được KSV thực hiện nhiều lần bằng văn bản hoặc bằng lời nói đối với ĐTV. Đối với những nội dung quan trọng liên quan đến việc kiểm tra, xác minh để xác định tội phạm, người phạm tội, có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án sau này thì KSV cần đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản. Một số nội dung cơ bản trong yêu cầu kiểm tra, xác minh là:

+ Xác định nhân thân cụ thể của người tố giác, người báo tin, người kiến nghị khởi tố? Người hoặc pháp nhân bị tố giác, bị báo tin hoặc bị kiến nghị khởi tố? Hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội cụ thể; thời gian, địa điểm, hậu quả của hành vi? Động cơ, mục đích, nguyên nhân, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi? những tình tiết khác có liên quan; khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi…

+ Đối với yêu cầu điều tra, ngoài những nội dung như xác định thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, người phạm tội, hậu quả của tội phạm, trường hợp cần thiết phải yêu cầu trưng cầu giám định, như: Yêu cầu trưng cầu giám định để xác định độ tuổi; nguyên nhân chết, chất ma túy, chất độc, chất nổ, chất cháy, nguyên nhân cháy, nổ…; trưng cầu định giá tài sản. Ngoài ra, KSV yêu cầu CQĐT ban hành các quyết định tố tụng cũng như thực hiện các hoạt động tố tụng để điều tra làm rõ tội phạm, người phạm tội cũng như các nội dung, tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

- Kỹ năng tiến hành một số hoạt động điều tra

Điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội thuộc về Cơ quan điều tra, Điều tra viên. Kiểm sát viên chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra như lấy lời khai, hỏi cung, đối chất, thực nghiệm điều tra...trong những trường hợp luật quy định để phục vụ cho công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi tiến hành một số hoạt động điều tra, KSV tiến hành theo đúng thủ tục, trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kết quả điều tra phải được đưa vào hồ sơ vụ án.

- Kỹ năng xét xỏi, tranh luận trong xét xử

Tham gia phiên tòa để công bố cáo trạng, xét hỏi, luận tội, tranh luận là những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của KSV khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử. Kiểm sát viên xét hỏi, tranh luận để làm rõ nội dung vụ án, bảo vệ quan điểm truy tố, buộc tội của Viện kiểm sát. Tại phiên toà, KSV theo dõi và ghi chép, có thể ghi âm (nếu xét thấy cần thiết) nội dung xét hỏi của HĐXX, của người bào chữa và ý kiến của người được xét hỏi để chủ động xét hỏi cho đúng trọng tâm nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án, kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của hồ sơ vụ án.

Khi xét hỏi, KSV xét hỏi bị cáo, bị hại, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. KSV đặt câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, tránh giải thích, kết luận ngay. Thái độ khi tham gia xét hỏi phải bình tĩnh, không cắt ngang lời người khác, tôn trọng người tham gia tố tụng. Do thời gian xét hỏi tại phiên tòa không hạn chế nên KSV cần bình tĩnh hỏi rõ từng vấn đề cần hỏi, không vội vã kết thúc khi vấn đề chưa được sáng tỏ.

Theo quy định tại Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự và Quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (ban hành kèm theo quyết định số 505 QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC thì khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa, KSV thực hiện việc tranh luận. Sau lời luận tội của KSV, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến của họ về quan điểm của VKS và đưa ra ý kiến, đề nghị, phản đối quan điểm của Viện kiểm sát thì KSV phải tranh luận để bảo vệ quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát. Khi tranh luận, KSV đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ sự thật, không chấp nhận ý kiến không đúng của họ. Khi đưa ra những luận điểm để phản bác lại ý kiến của phía bào chữa, KSV trình bày lý lẽ rõ ràng, viện dẫn chính xác các quy định của pháp luật, chứng cứ trong vụ án, không được có định kiến với ý kiến, quan điểm của bên bào chữa. KSV tôn trọng quyền của bị cáo, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bị hại và quyền của những người tham gia tố tụng khác.

- Kỹ năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, KSV có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra tình trạng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát của mình, KSV thực hiện các hoạt động trực tiếp kiểm sát hoặc gián tiếp kiểm sát thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án; yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp hồ sơ tài liệu của vụ án; kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát hoạt động tố tụng của Tòa án trong giai đoạn xét xử, như thành phần Hội đồng xét xử, trình tự thủ tục phiên tòa, kiểm sát việc tuyên án, thực hiện việc kháng nghị, kiến nghị v.v. Những kỹ năng, hoạt động trên của KSV nhằm bảo đảm cho vụ án, vụ việc có dấu hiệu của tội phạm được giải quyết đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng.

1.3. Một số khó khăn, hạn chế trong giáo dục quyền con người tại trường Đại học Kiểm sát Hà Nội

Thứ nhất, khó khăn, hạn chế trong phương pháp giáo dục

- Đối với phương pháp thuyết trình: Hiện nay phương pháp này được các giảng viên tận dụng triệt để trong giờ đứng lớp nên nhiều khi sa vào tình trạng truyền đạt thụ động, một phía, không gợi mở được tối đa tư duy, sáng tạo của người học, dễ dẫn đến mệt mỏi, không tập trung. Đồng thời phương pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin như soạn slide bài giảng, sử dụng máy chiếu kết hợp với bảng phấn. Việc đổi mới này đã khắc phục được một phần những hạn chế của phương pháp thuyết trình. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là nhiều giảng viên khi thiết kế slide bài giảng không ngắn gọn, súc tích mà copy nội dung bài giảng để trình chiếu nên không phát huy được hiệu quả tối đa của phương pháp thuyết trình.

- Đối với phương pháp làm việc theo nhóm: Hạn chế của phương pháp này là cách thức tiến hành của các giảng viên không thống nhất. Công tác chuẩn bị bài tập nhóm, giao bài tập nhóm, hỗ trợ sinh viên, học viên trong quá trình làm bài tập nhóm, giám sát sinh viên, học viên khi làm việc nhóm và báo cáo kết quả làm việc nhóm tại các giờ thảo luận chưa thống nhất, đồng bộ giữa các giảng viên cùng giảng dạy môn học.

- Đối với phương pháp trao đổi, thảo luận: Hạn chế của phương pháp này là cách thức tiến hành các buổi trao đổi, thảo luận chưa thống nhất. Qua theo dõi lịch trình giảng dạy của giảng viên thì thấy còn có giảng viên chưa xác định cụ thể nội dung của buổi thảo luận, trao đổi và việc giao nhiệm vụ cho sinh viên, học viên trong giờ trao đổi, thảo luận. Điều này dẫn đến tình trạng, khi vào buổi thảo luận, giảng viên hỏi sinh viên, học viên có vấn đề gì thắc mắc hay không? Nếu không có thì giảng viên nêu ra một số tình huống và cho sinh viên, học viên thời gian để trả lời. Với cách thức triển khai như vậy thì sinh viên, học viên không chủ động, sáng tạo trong học tập; không tự học, tự nghiên cứu để phát hiện các vấn đề mới phục vụ trong giờ trao đổi, thảo luận.

- Đối với phương pháp kiến tập, thực tập: Hạn chế của phương pháp này là sinh viên mới học hết năm đầu tiên, mới được học các môn học đại cương như triết học, tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa học các môn về pháp luật, về công tác của ngành Kiểm sát đã đi kiến tập nên chưa có khả năng tiếp cận, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng của KSV mà chủ yếu làm quen với môi trường làm việc của ngành Kiểm sát. Đối với việc thực tập, do sinh viên chưa là cán bộ ngành Kiểm sát nên việc tiếp cận hồ sơ vụ án còn rất hạn chế, không được tham gia sâu vào quá trình kiểm sát nên hạn chế về tiếp thu kỹ năng của KSV. Cán bộ lớp nghiệp vụ kiểm sát có khá hơn trong mặt này nhưng đôi khi về thực tập tại nơi làm việc của mình lại không được thực tập kỹ năng môn học này mà phải tham gia những công tác khác của đơn vị.

- Đối với phương pháp diễn án: Sinh viên, học viên còn trẻ, chưa tự tin khi vào vai Thẩm phán, KSV, Luật sư hoặc vai khác cũng như lời thoại trong vụ án dài nên đã hạn chế phần nào chất lượng diễn án.

Thứ hai, khó khăn, hạn chế trong nội dung giáo dục quyền con người

Năm 2015 Quốc hội thông qua nhiều bộ luật, luật, trong đó có nhiều nội dung mới về quyền con người, do vậy nên các cán bộ, giảng viên Nhà trường còn chưa kịp thời nghiên cứu, nắm vững một cách sâu sắc, đầy đủ các quy định về quyền con người nên sự truyền đạt về nội dung còn gặp khó khăn, hạn chế. Đồng thời, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, luật thi hành tạm giữ, tạm giam và luật thi hành án hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới liên quan đến quyền con người của người bị buộc tội nhưng chưa có văn bản hướng dẫn nên chưa có sự hiểu, vận dụng thống nhất, do vậy việc giảng dạy chưa đạt kết quả cao nhất. Trên thực tế, các sinh viên ra trường, các cán bộ, Kiểm sát viên đã qua đào tạo, bồi dưỡng tại Nhà trường đã tiếp thu và vận dụng tốt những kiến thức, kỹ năng về thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động để giải quyết các vụ án, vụ việc, qua đó bảo đảm quyền con người trong tố tụng. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng một số vụ án, vụ việc giải quyết không đúng quy định của pháp luật, dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

TS. Mai Đắc Biên,

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội

[1] Trong khuôn khổ có hạn của bài viết, chúng tôi chỉ đi sâu trình bày nội dung giáo dục quyền con người trong thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự tại Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Lời tác giả.

[2] Điều 58. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt; Điều 59. Người bị tạm giữ; Điều 60. Bị can; Điều 61. Bị cáo.