Độc lập, tự chủ trên tất cả các phương diện cũng là cơ sở để Việt Nam chủ động, sáng tạo hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả. Hội nhập quốc tế phải gắn chặt với bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, tạo sức mạnh tổng hợp cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Hội thảo diễn ra chiều 16/12 tại Hà Nội.
Hội thảo diễn ra chiều 16/12 tại Hà Nội.

Chiều 16/12, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo khoa học: “Độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua 40 năm đổi mới: Giải pháp thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII” do Tạp chí Cộng sản và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp tổ chức.

Những bài học quý giá từ 40 năm độc lập, tự chủ

Hội thảo nhằm hệ thống hóa những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, đồng thời tổng kết thực tiễn về đảm bảo độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam gần 40 năm qua, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, kịp thời đề xuất giải pháp trong giai đoạn mới của đất nước theo tinh thần Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị.

Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh: Độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Đây là một trong mười cặp quan hệ lớn, mang tính cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng được Đại hội XIII và Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định trên cơ sở kế thừa, phát triển quan điểm của Đảng trong các kỳ đại hội trước.

Độc lập, tự chủ là nguyên tắc nền tảng bảo đảm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bản lĩnh và vị thế quốc gia, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, an ninh quốc phòng…

chieu1.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu đề dẫn Hội thảo.

Các khía cạnh về độc lập tự chủ của Việt Nam trong suốt 40 năm qua được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Độc lập, tự chủ về chính trị: thể hiện ở sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; ở sự “tự chủ chiến lược” trong một bối cảnh thế giới đầy biến động, các thế lực thù địch vẫn không ngừng tìm cách chống phá.

Độc lập, tự chủ về kinh tế: thể hiện ở sự độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước, phát triển doanh nghiệp Việt Nam trở thành nòng cốt của nền kinh tế, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế.

Độc lập, tự chủ về văn hóa: thể hiện ở nỗ lực bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa dân tộc, chú trọng giáo dục nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại, nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Độc lập, tự chủ về đối ngoại: thể hiện ở việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh: thể hiện ở việc phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện chủ trương “bốn không” (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế), kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.

Độc lập tự chủ gắn với hội nhập quốc tế trong tình hình hiện nay

Trên cơ sở kế thừa, phát triển các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế, đồng thời, nhằm tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức trước những diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, ngày 24/1/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết này là văn bản chỉ đạo quan trọng, mang tính định hướng tổng thể của Đảng về hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 59-NQ/TW đã đề ra các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và các giải pháp lớn để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hội nhập quốc tế. Nội dung Nghị quyết phản ánh bước phát triển mới về tư duy, cách tiếp cận, phương pháp triển khai hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tình hình mới.

ch4.jpg
Hội thảo thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia, nhà khoa học.

Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi cho rằng, Hội thảo là dịp để các chuyên gia, các nhà khoa học trao đổi, thảo luận, tiếp tục làm rõ thêm, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới; những kết quả, thành tựu của Việt Nam trong hội nhập quốc tế gần 40 năm qua; những hạn chế, khó khăn, thách thức của Việt Nam đã, đang và sẽ gặp phải, đồng thời luận giải, cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, góp phần đưa Nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống, phục vụ quá trình phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới-kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đặc biệt là, phát huy vai trò của hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới, nắm bắt thời cơ chiến lược, tăng cường sức mạnh tổng hợp của dân tộc, vị thế, uy tín quốc gia, thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Như thế, hội thảo không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn mà còn cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước trong xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Các chuyên gia, các nhà khoa học đã đóng góp ý kiến, tham luận làm rõ các vấn đề sau:

Thứ nhất, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế của Việt Nam qua 40 năm đổi mới. Đường lối độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội của Đảng và qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là thực tiễn gần 40 năm Đổi mới. Việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối này có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định tính đúng đắn, khoa học và cách mạng của tư duy độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế; qua đó tiếp tục hoàn thiện nhận thức lý luận, làm nền tảng cho việc hoạch định và thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Thứ hai, thảo luận, đánh giá việc thực hiện chủ trương độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế. Khẳng định thành tựu đã đạt được, những hạn chế, khó khăn, thách thức và nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm, phục vụ trực tiếp cho việc triển khai hiệu quả Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị trong thời gian tới.

Thứ ba, phân tích bối cảnh mới, bao gồm cả bối cảnh quốc tế và trong nước, tác động đến việc thực hiện chủ trương độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế. Trong đó, cần tập trung làm rõ những biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới; xu thế cạnh tranh chiến lược, phân cực, phân mảnh; các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống; cũng như những yêu cầu mới đặt ra từ quá trình phát triển kinh tế-xã hội trong nước. Từ việc nhận diện đúng bối cảnh, cần gợi mở các vấn đề mang tính dự báo chiến lược, góp phần đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới

Thứ tư, đề xuất phương hướng, giải pháp để thực hiện chủ trương độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế theo tinh thần của Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Để hiện thực hoá mục tiêu, nhiệm vụ và triển khai các quan điểm chỉ đạo nêu ra trong Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, đề nghị hội thảo trao đổi, thảo luận, làm sâu sắc một số nội dung sau: Nghiên cứu, xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính đột phá, chiến lược nhằm phát huy hiệu quả của hội nhập quốc tế để phát triển nhanh và bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới. Đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế ngoài việc chuyển sang tư duy “kiến tạo”, “hội nhập theo chiều sâu và chất lượng cao”, “chủ động kiến tạo hội nhập”, v.v.. thì cần phải đổi mới những gì?

Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ, hội nhập quốc tế là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và người dân, vậy thì cần có những giải pháp gì để phát huy vai trò tích cực chủ động của người dân, doanh nghiệp và địa phương cũng như phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị? Cuối cùng, việc xây dựng niềm tin chiến lược giữa các quốc gia trong khi đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng là vấn đề quan trọng cần được tiếp tục trao đổi thảo luận.

chieu-6.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi (trái), Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Minh Tuấn, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản chủ trì Hội thảo.

Đề xuất phương hướng, giải pháp trong các lĩnh vực cụ thể về vấn đề độc lập, tự chủ, gắn với hội nhập quốc tế.

Về độc lập, tự chủ trong lĩnh vực chính trị: Làm rõ những nội dung cốt lõi của độc lập, tự chủ chính trị trong điều kiện một đảng cầm quyền lãnh đạo hội nhập quốc tế sâu rộng; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; đồng thời chủ động tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ của nhân loại, không để hội nhập làm phai nhạt bản chất chế độ, không để các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập để can thiệp, gây sức ép chính trị, tư tưởng.

Về độc lập, tự chủ trong lĩnh vực kinh tế: Tập trung phân tích việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; nâng cao nội lực, năng lực tự chủ về công nghệ, chuỗi cung ứng, thị trường, tài chính; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa thu hút nguồn lực bên ngoài với phát triển doanh nghiệp trong nước; giữa mở cửa thị trường với bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh năng lượng, an ninh lương thực trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Về độc lập, tự chủ trong lĩnh vực văn hóa: Hội nhập quốc tế vừa tạo điều kiện giao lưu, tiếp biến văn hóa, vừa đặt ra nguy cơ xâm nhập của các sản phẩm, lối sống, giá trị lệch chuẩn. Do đó, cần làm rõ yêu cầu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng; nâng cao “sức đề kháng” văn hóa, giữ vững bản lĩnh, cốt cách con người Việt Nam trong quá trình hội nhập, đồng thời phát huy sức mạnh của văn hóa trong đối ngoại, quảng bá hình ảnh quốc gia.

ch5.jpg
Hội thảo góp phần cung cấp cơ sở khoa học, tư vấn cho Đảng, Nhà nước triển khai có hiệu quả Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Về độc lập, tự chủ trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Trong bối cảnh các mối đe dọa an ninh ngày càng đa dạng, phi truyền thống gia tăng, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh; kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế, đối ngoại; chủ động tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh quốc tế nhưng kiên quyết không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không dựa vào nước này để chống nước kia, bảo đảm cao nhất độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.

Về độc lập, tự chủ trong lĩnh vực đối ngoại: Tiếp tục làm rõ phương châm đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; nâng cao năng lực dự báo, tham mưu chiến lược; xử lý linh hoạt, hài hòa các mối quan hệ với đối tác, nhất là các nước lớn; phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam tại các thể chế đa phương; từ đó biến hội nhập quốc tế thành động lực quan trọng cho phát triển, đồng thời củng cố vững chắc độc lập, tự chủ quốc gia.

Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi khẳng định: Việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là vấn đề mang tầm chiến lược của mỗi quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế. Nếu không giữ được độc lập, tự chủ, thì Việt Nam sẽ không thể hội nhập sâu, không thể có được vị thế, vai trò trong chỉnh thể thế giới, mà sẽ chỉ là một bộ phận lệ thuộc, bị dẫn dắt bởi các cấu phần khác của chỉnh thể thế giới.

Phát biểu kết luận Hội thảo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Minh Tuấn, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản nhấn mạnh: Các tham luận trình bày tại Hội thảo đã tiếp cận vấn đề độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế từ nhiều góc độ phong phú và toàn diện từ nền tảng lý luận, tư duy chiến lược của Đảng; tổng kết 40 năm đổi mới và hội nhập; đến phân tích sâu sắc bối cảnh quốc tế mới, những chuyển dịch lớn của cục diện thế giới và khu vực. Nhiều tham luận đã luận giải mối quan hệ giữa hội nhập với phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng-an ninh, mở rộng không gian chiến lược đối ngoại, phát huy sức mạnh mềm văn hóa, khoa học-công nghệ và chuyển đổi số. Các ý kiến cũng chỉ ra những cơ hội, thách thức đan xen, những vấn đề mới đặt ra đối với việc giữ vững độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng.

Những kết quả của Hội thảo góp phần cung cấp cơ sở khoa học, tư vấn cho Đảng, Nhà nước triển khai có hiệu quả Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, gợi mở những hoạt động học thuật trong thời gian tới nhằm làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với các lĩnh vực của hội nhập quốc tế.

Vũ Quỳnh Tranh
Nguồn:https://nhandan.vn/doc-lap-tu-chu-gan-voi-hoi-nhap-quoc-te-qua-40-nam-doi-moi-post930749.html